ảnh sưu tầm |
Con trai thứ tám của
Thái tông, vua thứ hai triều Lý, tên gọi Lý Hoảng, hiệu Nhật Quang, là người
trung tín, phong độ dàng hoàng, làm việc tận tụy, hành động quả cảm.
Bấy nhiêu nết tốt ... nhưng đến một lúc không
được tin dùng, do sự dèm pha, nghi kỵ, và khi qua đời, đã để lại trong dân
chúng nhhiều nỗi tiếc thương.
Biết là con cháu sau này lắm vợ nhiều con, nên
để chọn một người kế vị xứng đáng, vua sáng lập triều Lý (tức Lý Thái Tổ) đã đặt
ra lệ là phong tước cho các con của mẹ đích là vương, các con của mẹ thứ là hầu,
và không đặt ngôi hoàng thái tử.
Làm như vậy để khuyến khích các con chăm làm
điều thiện, qua đó mà chọn được người xứng đáng để truyền ngôi.
Nhưng trái lại với ý tưởng đó, trên thực tế đã
xảy ra nhiều vụ tranh giành, bằng hành vi mờ ám và bằng cả bạo lực.
Tuy vậy, cũng vẫn có những vị Hoàng tử làm
đúng theo giáo huấn của Lý Thái Tổ, đã tu nhân tích đức, làm tròn phận sự và
không nghĩ đến sự tranh giành quyền lực.
Con thứ tám của Lý Thía Tông là một trong những
vị Hoàng tử như vậy.
Thời Lý Thái Tông trị vì, Lý Hoảng là con mẹ
thứ nên được phong tước hầu. Năm Càn phù hữu đạo thứ nhất (1039), nhận thấy đã
khôn lớn, Lý Thái Tông giao cho Lý Hoảng đảm nhiệm việc thu thuế ở châu Nghệ
An.
Đến nơi nhậm chức, rồi ở lại mấy mùa, Lý Hoảng
làm việc tận tụy, thu đủ số thuế phải nộp, ngoài ra không nhân cơ hội đó để hà
lạm thêm của dân như nhiều vị quan thu thuế khác, vì vậy đã được tiếng là người
thnah liêm, chính trực.
Hai năm sau (1041) xét thâý có thể tin tưởng
hơn, Lý Thái Tông giao cho Lý Hoảng làm tri châu Nghệ An, tước hiệu là Uy minh
hầu Lý Nhật Quang.
Khi ấy, Lý Thái Tông đã có ý định đánh Chiêm
Thành, bèn tiến hành những công việc chuẩn bị. Ở châu Nghệ An, nhà vua giao cho
Nhật Quang làm một hoành doanh dọc theo sông Bà Hòa (nay là xã Đông Hòa huyện
Tĩnh Gia - Thanh Hóa) gọi là trại Bà Hòa.
Trại này có vị trí hiểm trở, kiên cố. Bốn mặt
trại có hào sâu, lũy cao, còn ở trong là nền đất rộng có thể chứa được ba, bốn
vạn quân lưu thủ, ngoài ra lại có các kho tàng chứa vật dụng, và lương thực thì
dự trữ đủ dùng trong ba năm liền. Xung quanh trại đặt các điếm canh, ngày đêm tổ
chức tuần tra canh phòng cẩn mật.
Ba năm sau (1044) Lý Thái Tông cất đại quân đi
đánh Chiêm Thành. Nhờ kho hậu cứ Bà Hoà được chuẩn bị chu đáo, nên vật dụng và
lương thực dồi dào, quân sĩ yên tâm chiến đấu.
Trong trận đánh lớn ở bờ Nam sông Ngũ Bồ (có
thể là hạ lưu sông Thu Bồn, chảy ra cửa Đại Chiêu, ở Quảng Nam Đà NaÜng ngày
nay), Tướng Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Quân ta đại thắng.
Nhà vua khải hoàn, dẫn quân trở về, tới hoành
doanh Bà Hòa thì nghỉ lại. Nhật Quang đón tiếp nhà vua và sắp xếp nơi ăn chốn
nghỉ cho quân sĩ đầy đủ, chu đáo, được nhà vua khen ngợi.
Khi xem xét các giấy tờ sổ sách, thấy ghi chép
cẩn thận, rõ ràng. Xem kho tàng cùng nhiều nơi khác, thấy sắp đặt gọn gàng, đâu
ra đấy. Nhà vua rất hài lòng, thăng cho Lý Nhật Quang từ tước hầu lên tước
vương, lại cho cai quản thêm một lộ mới cùng với châu Nghệ An.
Sau khi căn dặn Nhật Quang ở lại lo tròn nhiệm
sở, bắt tay vào công việc ...
Cùng thuộc hạ kiểm tra và ghi chép lại sổ sách
của lộ mới thêm, một vừa làm vừa vất vả vừa tỉ mỉ - gồm 6 huyệnn 4 trường, 60
giáp với 46.450 hộ, 54.364 nhân khẩu. Theo lêïnh chỉ của nhà vua, Uy Minh Vương
sắp xếp và đặt tên lại cho các chức vụ trong lộ mới.
Ở châu Nghệ An và lộ mới sát nhập, bấy giờ (và
cả sau này) có nhiều bộ tộc người thiểu số (thời ấy gọi là Di, Lạo) và có đường
biên giới vừa dài vừa hiểm trở cung với nước Ai Lao (Lào). Các bộ tộc thiểu số
lúc ấy phần lớn chưa chịu nôi thuộc triều đình, còn ở biên giới thì hay xảy ra
những vụ tranh chấp.
Được nhà vua ủy thác, Uy Minh Vương mang tiết
việt dẫn quân đi tuần tra biên giới và các vùng có người thiểu só ở.
Các vị tù trưởng từ đấy đều về thuần phục triều
đình. Cuối đợt "thị sát" Uy Minh Vương thu được 5 châu, 22 trại, 56
sách và vẫn để các vị tù trưởng cai quản địa hạt như cũ. Ở biên giới, Uy Minh
Vườngcung quan alị địa phương của Ai Lao xác định lại các vị trí, rồi dựng bia
cắm trụ (tức "cột mốc") để ghi nhớ về sau.
Năm 1054, Lý Thái Tông băng hà. Lý Nhật Tôn,
con trai trưởng của Thái Tông kế vị, tức là vua Lý Thánh Tông.
Như đã thành thông lệ, động thái đầu tiên của
một vị vua mới lên ngô bao giờ cũng gồm các việc: Đặt niên hiệu, tôn phong (hoặc
truy phong) cha mẹ, phong tặng quan lại tuớng sĩ (nhất là những người có công
trực tiếp) và đại xá thiên hạ.
Vì sự tranh chấp ngôi vua giữa các vị Hoàng tử
là điều xảy ra khá thường xuyên, nếu không bộc lộ trực tiếp thì chí ít cũng ở dạng
tiềm ẩn, ngấm ngầm, vì vậy khi mới lên ngôi, vị vua nào cũng đều có sự đề
phòng. Và sự đề phòng này nhiều khi cũng thực quá đáng. Cho nên, đừng tưởng nhà
vua mới đăng quang phong tặng, đại xá ... thì đều là đức độ và dễ dãi cả đâu.
Không ít trường hợp, đấy chỉ là sự lừa mị, che mắt thiên hạ. Vì vậy, điều đáng
buồn xảy ra với các vị hoàng tử không được làm vua mà thực bụng (tức là không
có ý định tranh giành ngôi báu)là vẫn bị nhà vua nghi kỵ, đề phòng. Và đó chính
là điều đã xảy ra với vị Hoàng tử của đời vua trước, em của đời vua sau, là Uy
Minh Vương Lý Nhật Quang này.
Khi nghe tin vua Lý Thái Tông băng hà, ở vùng
biên giới và dân tộc thiểu số thuộc châu Nghệ An, Ông Yết và Lý Bí khởi loạn,
thnàh thế mỗi ngày một lớn.
Là viên quan tri nhậm trực tiếp, Uy Minh Vương
tính rằng: nếu theo lệ thường, cho người phi báo về kinh rồi thì người đó mang
lêïnh chỉ của nhà vua trở về, thì đường xa xa xôi, đi lại tất mất nhiều thời
gian. Nếu đến lúc đó mới mang quân đánh dẹp thì tức là đã để lỡ thời cơ, không
đúng với phép dùng binh. Vì vậy, vừa cho người về kinh, Uy Minh Vương vừa xuất
quân đi đánh Ông Yết, Lý Bí.
Sau mấy tháng hành quân, đánh dẹp vất vả, Uy
Minh Vương thắng lợi trở về nhiệm sở, cũng là lúc có chiếu chỉ nhà vua mới tới.
Tưởng là chiếu chỉ khen thưởng, những nào ngờ, khi quỳ xuống ghe đọc thì lại là
chiếu chỉ trách cứ. "Thực là nhục nhã" - Uy Minh Vương tự nhủ.
Thời gian mấy tháng Uy Minh Vương dẫn quân đi
đánh dẹp thì cũng là lúc Lý Thánh Tông đã lên ngôi xong, và cũng nghe đủ mọi
tin tức từ miền Nghệ An tới. Sẵn tâm lý đề phòng, nghi kỵ, lại nghe có vị triều
thần xu nịnh tâu rằng như thế là Uy Minh Vương tự quyền, nên Lý Thánh Tông ban
ra chiếu chỉ trách cứ để răn đe trước ấy.
Uy Minh Vương và Lý Thánh Tông chỉ là anh em
cùng cha khác mẹ, tình cảm lâu nay cũng chẳng có gì thân thiết. Việc Nhật Quang
dược vua cha khen ngợi rồi phong lên tước vương lúc này chỉ làm cho Lý Thánh Tông
càng thêm đố kỵ. Hơn nữa, lúc này Uy Minh Vương đang tụi nhậm cả một vùng rộng
lớn, được dân chúng mến phục, lại có sẵn quân quyền trong tay, nên Lý Thánh
Tông còn lo cả việc Minh Vương sẽ làm phản, như đã thường xảy ra như thế. Vì vậy,
cùng với chiếu tách cứ "tự quyền", Lý Thánh Tông cũng không quên căn
dặn viên quan công vụ vốn là thuộc hạ cũ ở Đông cung, hãy kín đáo dò xét mọi
thái độ, hành vi của Uy Minh Vương mà cho người mật báo về kinh ngay.
Vốn là người từng trãi, nên thoáng thấy viên
quan công vụ cùng thái độ của chỉ của y là Uy Minh Vương đã hiểu rõ sự tình.
Ngài buồn về nỗi nhân tình thế thái sao mà bạc bẽo, bỉ lậu đến vậy. Anh em dẫu
sao không cùng mẹ nhưng cũng cùng huyết thống, tưởng sẽ nâng đỡ, tin cậy nhhua
hơn, vậy mà lại nghi kỵ còn hơn cả gnười ngoài. Những khi lặn lội, xông pha ở
miền biên ải, Uy Minh Vương không ngờ có lúc chính mình sẽ phải nếm trải nông nỗi,
nguồn cơn này.
Cứ theo như di huấn của Lý Thái Tổ mà Lý Thái
Tông chịu thực hiện, tức là đem việc chọn người ra bàn bạc thì rất nhiều có thể
người được chọn là Nhật Quang. Những đức tính rồi cả những công việc mà Nhật
Quang đã làm chắc cả triều đình đều biết. Việc Nhật Quang được ban khen, thăng
tước, được dân sở tại yêu mến kính trọng, thì cả triều đình cũng chẳng lạ gì.
Tuy Nhật Tôn(tức Lý Thánh Tông) đã ở Đông
cung, lại đã từng được "giám quốc", được "lưu thủ kinh sư"
khi Lý Thái Tông đi đánh dẹp xa, nhưng uy tín đức độ so với Nhật Quanh chắc gì
đã hơn? Nếu thực sự công khai bằng công bằng thì có thể nói chắc là Nhật Tôn
còn kém nữa!
Nhật Tôn có lời thế
là con trưởng, tuổi lớn hơn Nhật Quang. Nhật Tôn lại luôn óc mặt ở kinh thành,
vì vậy, khi Lý Thái Tông có triệu chứng xấu về sức khỏe, thì đã cho Nhâït Tôn
coi chầu nghe chính sự (tháng 7 - 1054). Hơn hai tháng sau Lý Thái Tông băng
hà(1/10/1054).
Có thể nói như thế này: Một vị Hoàng tử được
phong ở Đông cung (thường là con trưởng, tuổi lớn nhất) khi vua cha còn sống và
còn khỏe mạnh thì chính yếu đấy là một biện pháp dự phòng, chứ chưa thể nói chắc
là người ấy sẽ được kế vị, vì rất có thể nhà vua sẽ thay đổi quyết định. Trường
hợp Nhật Tôn trước tháng 7 - 1054 là như thế. Nhưng khi nhà vua đau ốm thì người
được gọi vào"coi chầu nghe chính sự" sẽ là người kế vị. Đây lại là một
giải pháp tình thế hơn là một giải pháp chiến lược, do vậy, người lên ngôi mới
chưa hẳn là người tài cao đức cả nhất trong số các hoàng tử. Và trường hợp Nhật
Tôn sau tháng 7 - 1054 cũng chính là như thế!
Hành động của Nhật Quang mang quân dẹp loạn là
xuất phát từ quyền lợi của cả vương triều chứ đâu phải là "làm việc chuyên
quyền, tự ý dùng quân đánh dẹp", do vậy "sự ngờ vực" của Lý
Thánh Tông có thể xem như sự nghi kỵ, đề phòng, tuy là ra oai, nhưng đã chứng tỏ
một sự kém độ lượng.
Lịch sử cung đình xưa nay vẫn chứa đựng nhiều
tấn bi kịch, và đây chỉ là một ví dụ.
Sau khi nhận thức rõ tình thế của mình, Uy
Minh Vương đã đệ đơn lên nhà vua xin từ chức. Sự việc đó xảy ra vào năm Long Thụy
thứ hai (1055) của triều Lý Thánh Tông, nhưng thực ra chỉ cách khoảng nửa năm kể
từ ngày nhà vua mới đăng quang (5 - 1054).
Có thể hiểu được tâm trạng của Uy Minh Vương
lúc này là đang lâm vào tình thế "tiến thoái lưỡng nan". Ở lại thì nhục
nhã, vì có công mà bị quở trách. Nhưng ra về thì tự chuốc lấy tai họa, vì đã chạm
đến lòng tự ái của nhà vua.
Còn đối với Lý Thánh Tông, bên trong thì mừng
thầm vì như vậy đã trừ đi một hậu họa (sợ bị làm phản) nhưng bên ngoài thì rõ
ràng bẽ mặt với các hoàng tử và triều thần, vì vừa mới lên ngôi mà đã có vị
Hoàng thân vào loại đức độ, uy tín nhất xin từ chức.
Trong hai giải pháp: nhận đơn (thuận cho từ chức)
hoặc bác đơn (không hco từ chức), Lý Thánh Tông đã chọn giải pháp thứ nhất. Giải
pháp ấy vừa thỏa mãn lòng tự ái, vừa có lợi, nhưng đó cũng là sự"dứt
tình", là dấn sâu thêm vào sự đề phòng và nghi kỵ đã có.
Khi hay tin có quan mới đến tri nhậm, lại hay
tin Uy Minh Vương đang dời nhiệm sở, đông đảo dân chúng từ nhiều nơi trong châu
Nghệ An kéo về, người níu xe, kẻ giữ ngựa, rồi khóc lóc thảm thiết, xin Vương ở
lạ.
Dân chúng vốn không Uy Minh Vương đã có đơn từ
chức, và họ chỉ hành động theo những tình cảm tự nhiên bồng bột và chất phát của
mình, nhưng sự viêïc ấy, vô hình trung lại gây tai họa thêm cho tính mạng của
Vương.
Lý Thánh Tông sau khi phê đơn để Uy Minh Vương
từ chức, liền cử ngay một viên quan thân tín vào thay thế. Việc Uy Minh Vương
ra về đưọc đông đảo dân chúng ái mộ làm cho viên quan mới này khó chịu, và
khoét sâu thêm lòng tự ái đã có của Lý Thánh Tông.
16 năm xa kinh thành rồi vào đây thu thuế rồi ở
lại trị nhậm, trên thực tế Uy Minh Vương và gia đình (vợ, con, đầy tớ ...)đã trở
thnàh những người địa phương cả rồi. Vì vậy, việc một Hoàng thân đã từng tri
châu lâu năm, nay là thường dân nhưng đã "địa phương hóa" và được dân
chúng mến mộ, tất nhiên sẽ là cái gai ở ngay trước mắt của quan sở tại mới.
Quan sở tại muốn nhổ cái gai ấy, còn nhà vua
đương nhiệm, không biết có muốn nhổ hay không nhưng chắc chắn là Ngài chẳng ưa
gì ...
Cái chết của Uy Minh Vương đến sau đó ít lâu,
vì thế vẫn còn là điều bí mật. Không ai vén bức màn này lên cả. Tuy nhiên vẫn
có câu chuyện truyền thuyết về cái chết của Ngài ...
Tư ngày trở thành "phó thường dân"
(như danh từ của thời hiện đại), Uy Minh Vương Nhật Quang (tất nhiên vẫn còn tước
hiệu cũ, chỉ không còn chức mà thôi!) cùng gia đình về sống tại xã Bạch Đường,
huyện Nam Đường, Nghệ An. Ngài trồng hoa, nuôi chim, gặp gỡ bạn bè,v.v ... Nói
chung nhìn từ bề ngoài vào, thấy cuộc sống của Ngài cũng khá an nhàn, thoải
mái.
Một hôm, Ngài đang ngồi trong nhà, bỗng thấy một
con quạ bay đến trước mặt, làm cho bầy chim nuôi xao xác. Người nhà chạy ra định
bắt thì Ngài khoát tay bảo rằng để xe nó thế nào. Con quạ bay quanh trong nhà
ba vòng, vừa bay vừa kêu, rồi xà vào trong lòng Ngài.
Bỗng nhiên con quạ biến thành một tờ giấy trắng
, ở trong có hình lờ mờ như hình rồng mây ...
Chẳng biết Ngài thấy linh tính báo trước điều
gì mà không tiện nói ra, nhưng chỉ biết sau đó, Ngài cho người nhà đi khắp nơi
mời bạn bè gần xa đến, rồi sai người nhà chuẩn bị cỗ bàn thật thịnh soạn để tiếp
đãi khách ...
Bữa ấy, Ngài và gia đình cùng bạn bè đã
"vui vẻ" với nhau một "trận" thật thoải mái. Ăn uống xong lại
còn đàn sáo, ca hát thật tưng bừng. Đêm đã khuya, bạn bè lúc ấy vẫn còn đông đủ,
nhưng Ngài mệt quá, rồi gục xuống bàn ngủ thiếp đi. Bạn bè cũng thế, ai muốn ngủ
thì cứ ngủ, còn ai thích đàn thích hát thì cứ tiếp tục đàn hát ...
Trong giấc ngủ mơ màng, Ngài bỗng thấy một ông
già, chừnng sáu mươi nhăm tuổi nhưng còn quắc thước, đầu đội mũ đính ngọc có giải,
mình mặc áo đại trào màu tía, ngang lưng thắt đai dát vàng, chân đi hài thêu.
tay ông già cầm thanh long đao có lưỡi như vành trăng. Ông tiến đến trước mặt
Ngài, vái chào rồi nói:
- Tôi là sao Vũ Khúc trên trời , vâng lệnh Ngọc
Hoàng mời Ngài đến sở của Tử Hư đế quân để thảo một chương ngọc điệp.
Ngài thấy ngạc nhiên quá bèn đáp lại:
- Có lẽ Ngài nhầm đấy, tôi người trần mắt thịt,
làm sao có thể làm việc ở trên thiên đình? Nói xong Ngài đứng thẳng dậy luôn, mắt
nhìn thẳng vào mặt ông già rồi gạt thanh long đao ra.
Cùng lúc với động tác đó, mệng Ngài nhẩm thành
tiếng "Lạ thật", rồi thức dậy ngay liền.
Bạn bè thấy Ngài thức dậy như vậy, lại nhìn vẻ
mặt, thấy có vẻ ngơ ngác, bèn xúm lại hỏi han: "Làm sao mà như thế"
Ngài thuật lại giấc mộng của mình. Rồi một người
nói: "Chắc là điềm lành đấy", nhưng chỉ thấy Ngài lắc đầu có vẻ buồn
bã. Ngài bảo bạn bè: Ai còn sức thì cứ vui chơi ca hát đi, còn mình thấy hơi
váng đầu, xin phép được đi nằm, lúc nào tỉnh dậy sẽ tiếp tục cuộc vui ...
Không ai ngờ rằng, đó là những lời nói cuối
cùng của Ngài.
Khi đêm đã khuya, một vài người bạn còn thức đến
lay gọi xem Ngài đã tỉnh hay chưa, khi sờ vào, đã thấy tay chân và toàn thân
Ngài lạnh toát.
Mọi người nháo nhác, cùng xúm vào lay gọi,
nhưng Ngài đã đi vào cõi vĩnh hằng rồi.
Đám tang của Ngài rất đông, gần kín cả một
cánh đồng. Tiếng khóc, tiếng kêu than thảm thiết như lay động cả đất trời. Khi
đã chôn xong, hàng tuần sau còn thấy dân chúng khắp các nơi trong châu kéo về để
thắp hương trên mộ Ngài. Từ trẻ con đén cụ già, ai ai cũng thấy hai mắt đỏ hoe,
giọt lệ sụt sùi. Họ thực sự tiếc thương một con người mà trong suốt cuộc đời đã
hết lòng thương yêu và gắn bó với họ.
Dân chúng tin rằng không phải Ngài mất đi mà
chính là Ngài đã được Ngọc Hoàng thượng đế đưa vào cõi bất tử.
Đền thờ chính của Ngài được lập tại xã Bạch Đường,
nơi mà Ngài đã sống những ngày cuối đời. Còn những nơi khác, rải rác khắp trong
châu Nghệ An mà suốt 16 năm qua Ngài đã từng gắn bó, nhiều đền thờ nữa cũng được
lập nên. Ngày tuần, ngày tiết, rồi ngày Tết, ngày kỵ giỗ, dân chúng đều đến thắp
hương dâng lễ vật, để tưởng nhớ và cầu mong Ngài làm cho mưa thuận gió hòa, cho
sản vật dồi dào và mọi người an cư lạc nghiệp ...
Những lời cầu mong ấy bao giờ cũng được đáp ứng!
Ở triều đình, nhà vua thấy vậy, liền ra sắc phong Ngài là đại phúc thần của cả
châu Nghệ An.
Từ đó về sau, mỗi khi nhà vua hay các tướng
lĩnh mang quân đi đánh dẹp qua các châu này, thảy đều mang hương hoa, lễ vật đến
đền chính của Ngài để xin hiển ứng phù trợ. Rồi bao giờ cũng thấy một kiệu rước
bài vị của Ngài đi trước hàng quân. Lại cũng thấy, trong những trận giáp chiến
của quân ta, có cả tiếng binh mã vang dậy trên trời như góp thêm thanh thế. Đó
là vì, Ngài đã mang thiên binh trở về giúp dập để quân ta chiến thắng quân địch.
Rõ rệt nhất là trong đờiù Trần Thái tông, niên
hiệu Nguyên Phong, khi nhà vua mang quân đi đánh Chiêm Thành, đã cho thuyền chở
kiệu của Ngài đi trước. Chẳng có chèo lái, cũng chẳng có gió thổi, vậy mà thấy
thuyền chở kiệu của Ngài lướt sóng băng băng tiến lên phía trước. Vua Trần Thái
tông cả mừng, nói rằng đấy là điềm báo trước sự thắng trận.
Quả nhiên sau đó, chỉ một trận đánh, quân
Chiêm Thành đã đại bại. Vua Chiêm chạy thoát, nhưng Hoàng hậu, thê thiếp và nhiều
quân sĩ khác đã bị bắt (1252).
Lúc khải hoàn, quân đội ra về qua huyện Nam Đường,
Vua Trần Thái tông thân đến đền chính của Ngài để tạ ơn rồi phong tặng Ngài là
"Uy Minh dũng liệt đại vương".
Các triều đại về sau cũng noi gương đó mà làm
theo ...