THIỀN SƯ HUYỀN QUANG - TAM TỔ THIỀN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Sách Tam tổ thực lục ghi: "Huyền Quang đỗ
đầu thi Hội và ngoài 50 tuổi mới xuất gia". Nhưng trong dân gian vẫn truyền
tụng Huyền Quang đỗ Trạng Nguyên (đời Trần) và xuất gia tu hành từ lúc còn trẻ
tuổi.
Là thiền tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, có
hàng mấy ngàn đệ tử nhưng Huyền Quang cũng còn là một nhà thơ nổi tiếng. Trải
qua bao phen binh lửa, đến nay thơ Huyền Quang chỉ còn lại tập Ngọc tiên với 23
bài thơ chữ Hán và một bài phú Nôm. Tuy ít ỏi như vậy, nhưng thơ Huyền Quang có
"nhiều hàm nghĩa và một tâm hồn thơ phong phú".
Thơ Huyền Quang "thể hiện rõ phong cách
Thiền gia an lạc, thanh thản, con người hòa đồng cùng tự nhiên", "là
niềm cảm thông với những nỗi khổ vô hạn của nhân thế". Thơ Huyền Quang
"bộc lộ mọi cung bậc của tâm trạng mình. Có vui, có buồn, có day dứt và có
yên tĩnh ... song đậm nét hơn cả vẫn là nỗi buồn, là tâm trạng cô đơn''.
Các nhà nghiên cứu "nói có sách, mách có
chứng", không thể có những nhận định nào khác hơn trên cơ sở những tư liệu
đã xác định. Và như vậy, Huyền Quang hiển nhiên là một "Thiền gia thi sĩ
hay thi nhân thiền gia" thật đáng kính, đáng trọng!
Tuy nhiên, trong dân gian, những giai thoại,
huyền thoại về Huyền Quang lại khá phong phú. Nó chứng tỏ Huyền Quang vừa là vị
Tổ đáng kính, lại vừa là một con người còn khá trần tục, rất gần gũi với những
người bình thường, do đã biết rung động thực sự trước vẻ đẹp của giai nhân!
Hai thái cực đó, trong một con người mà lẽ ra
không nên có, và không thể chấp nhận ở một bậc Thiền sư, đã là điều mà trước kia
các vị danh nho đã từng luận đàm và bày tỏ thái độ. Tựu trung, sự đánh giá, luận
đàm của họ, là nhằm vào bài thơ Giai nhân tức sự mà theo tương truyền, là do
Huyền Quang làm, và mối quan hệ của Huyền Quang và nàng Điểm Bích là có thực,
khi ông đã ở độ tuổi ngoài sáu mươi!
Những tư liệu trong dân gian có thể những sách
trước kia chưa chép, hoặc có chép nhưng bị thất lạc. Và do vậy, nếu thử tái hiện
lại, có thể có những nhận định khác chăng?
Vào thời nhà Trần, ở xứ Bắc có một người học
trò nổi tiếng hiếu học tên gọi Huyền Quang. Tuy nhà rất nghèo nhưng chàng vẫn
đeo đuổi nghiệp đèn sách. Âu đó cũng là một cách nối lại nghiệp nhà, vì trước
kia ông tổ chàng đã từng giữ chức Hành khiển, ông nội từng làm đến Chuyển vận sứ.
Còn đến đời cha chàng, tuy đã từng khoát áo cầm gươm xuất chinh, nhưng do
"lập công mà chẳng được nên công" nên phẫn chí ở nhà cày ruộng và chịu
cảnh gia thế ... sa sút! Do vâïy, đến đời chàng, chàng phải miệt mài đèn sách.
Chàng học hành rất tấn tới, cha mẹ chàng cũng
rất hài lòng. Hai ông bà chẳng quản từ nan, thường vẫn đi làm mướn lấy tiền
thêm cho chàng ăn học. Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ chàng nghĩ con mình giỏi
giang, nay mai có thể công thành danh toại, nên đã đánh bạo đi dạm hỏi cho
chàng một đám danh giá trong vùng. Nhà gái nhận lời.
Nào ngờ, đã mấy năm trời sêu tết, lại thường
khi phải phục dịch các công to việc lớn bên nhà bố vợ tương lai, thì đùng một
cái, ông bố vợ quý hóa lại gả vị hôn thê cho cháu một viên An phủ sứ!
Sau lần bẽ mặt ấy, cha mẹ chàng lại đi dạm hỏi
một đám khác, tuy không danh giá bằng nhưng cũnng thuộc loại khá giả, giàu có
trong làng. Chẳng ngờ, lần này lại tệ hại hơn cả lần trước: Khi cha mẹ chàng vừa
mở lời thì đã bị từ chối thẳng thừng: "Dài lưng tốn vải".
Tuy vậy, Huyền Quang chẳng nản lòng, vẫn ngày
đêm tu chí học tập!
Thông thường những trường hợp tu chí như thế
này là mong sao sau này đỗ đạt, kiếm được chức quan rồi sau đó sẽ lấy những đám
danh giá giàu có hơn cảnhững đám trước kia đã từ chối mình.
Huyền Quang thừa hiểu như vậy nhưng chàng đã
không làm như vậy!
Chàng đọc cả sách Nho, sách Phật, ngày đêm
nghièn ngẫm chúng, và đã tìm cho mình một con đường đi khác ngay từ khi còn
chưa đỗ đạt!
Tuy nhiên, dã đi học là phải đi thi, ai ai
cũng như vậy. Và Huyền Quang đã không phụ công cha mẹ: đỗ đầu thi Hội (dân gian
còn truyền tụng chàng đỗ Trạng nguyên!).
Vừa hay tin có một vị khôi nguyên trẻ tuổi
nhưng còn thiếu "võng nàng", các vị phú ông trong vùng bèn thi nhau
nhắn tin muốn gả con gái cho chàng. Lịa hứa sẽ cho cả nhà cửa, lụa là, trâu bò,
ruộng nương nữa.
Một vị quan lớn ở Kinh đô cũng mời bằng được
quan tân khoa về thái ấp của mình để xem rõ mặt "nàng thục nữ yêu kiều tuổi
mới tròn đôi tám" ...
Ngày chàng vào kinh nhậm chức thì một viên
quan nội giám đến gặp riêng chàng:
- Hoàng hậu đang kén phò mã cho nàng công chúa
thứ ba, nếu quan Trạng ưng ý thì nhất định việc ấy phải thành.
Huyền Quang cung kính đáp lời từ chối khéo,
cũng như chàng nhã nhặn từ chối tất cả những người nhắn nhe mai mối trước đây.
Nhân sự việc này chàng buột miệng đọc chơi hai
câu thơ:
Khoa khăn thì chẳng
ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên.
Cũng có thể chàng chẳng đọc hai câu thơ ấy,
nhưng sự việc chàng từ chối những đám rất mực danh giá thì ai cũng biết, do đó,
người ta bình luận và đọc nó lên cũng là chuyện bình thường. Vả lại, hai câu
thơ này cũng chẳng đến nỗi khó làm.
Đã thừa rõ thói hám lợi hám danh của người đời,
nên khi tham dự vào đám quan trường, Huyền Quang chẳng những không hứng thú gì
mà càng ngày càng tỏ ra chán ngán. Được vài năm thì chàng xin từ chức đi tu.
Ấy là cái ý nguyện mà chàng đã có từ lúc còn
đang đi học!
Nhà vua thấy vậy khen chàng là một người khác
thường và bảo:
- Kẻ này có con mắt đạo, có thể trở thành pháp
khí, đứng là bậc thánh tăng!
Quả là nhà vua, do cũng chuộng đạo Phật, nên
đã có con mắt tinh đời.
Huyền Quang tu rất chăm chỉ, chẳng bao lâu, với
học vấn tài cao, chàng thông thuộc tất cả các kinh sách của nhà Phật thời bấy
giờ. Các tăng ni, phật tử đều yêu mến chàng. Nhà vua và hoàng tộc cũng vì nể
chàng. Đạo Phật lúc ấy cũng chưa đến độ suy vi, vẫn còn tỏa ánh hào quang lấp
lánh, tuy không bằnng giai đoạn trước của hai vị tổ Điều Ngự (Trần Nhân Tông)
và Pháp Loa, nên đang cần có một vị Quốc sư, một người đứng đầu Trúc lâm viện để
cai quản các tăng ni phật tử, và thế là vị Trạng nguyên trẻ tuổi được xung vào
chức vụ này. Đó là một việc làm chưa từng có.
Vua Trần Anh Tông lúc ấy là một vị vua trẻ tuổi,
cũng mới đăng quang chưa lâu. Nghe triều thần có kẻ dèm pha Huyền Quang còn trẻ
như thế, chắc gì đã là một vị chân tu, lại đứng đầu các hàng tăng ni, phật tử,
e rằng thiên hạrông vào sẽ sinh ra dị nghị. Nhà vua ngẫm nghĩ mấy ngày, rồi sau
đó; cho thi một mật kế để thử xem đạo đức nhà sư như thế nào.
Nhân vì mấy ngày hoàng hậu se mình, nhà vua hạ
chỉ triệu Huyền Quang vào cung để làm lễ cầu mát. Công việc xong xuôi, nói là để
thưởng công khó nhọc, nhà vua ban cho Huyền Quang mười lạng vàng trước lúc ra về.
Thiền sư không tiện từ chối, đành phải đầu tạ ơn rồi cầm lấy. Nào ngờ đó là những
nén bạc đã được đánh dấu mà Huyền Quang, do chẳng thiết tha gì tiền bạc, nên
cũng không để mắt nhìn kỹ.
Mưu kế mà Trần Anh Tông tiến hành để thử Huyền
Quang không có gì khác hơn là cử một người con gái đẹp, tìm cách đến gần vị Thiền
sư để lung lạc về đường diệt dục khổ hạnh. Người con gái được chọn để làm việc
này là một cung nữ có tài thơ văn, đó là nàng Điểm Bích.
Điểm Bích vốn là con một người đàn bà hành khất
quê ở huyện Đường Hào thuộc Hải Dương bây giờ. Vì không có chồng mà chửa nên được
mấy ngày, người mẹ đem con cho một gia đình giàu có nhưng hiếm hoi ở trong
vùng, nuôi. Sắc đẹp và tài năng vốn không chọn hoàn cảnh, cho nên càng lớn lên
Điểm Bích lại càng lộng lẫy, xinh đẹp. Lại nhanh nhẹn và rất sáng dạ nữa. Được
bố nuôi cho ăn học nên Điểm Bích còn giỏi giang, biết chữ nghĩa và làm phú làn
thơ cũng khá.
Khi có chiếu chỉ nhà vua ban xuống về việc chọn
mỹ nữ tiến cung thì Điểm Bích là một trong những người đầu tiên được trúng tuyển.
Vào cung, Điểm Bích được vua Trần Anh Tông yêu
mến cả sắc lẫn tài, lại được tin dùng, và thường được mọi người ca ngợi là
"nữ thần đồng".
"Nữ thần đồng" chính là người được
chọn để đi thử vị Thiền sư trẻ tuổi.
Nhà vua giao hẹn với Điểm Bích phải lấy được
ít nhất một thỏi vàng trong số vàng nhà vua đã tặng Huyền Quang, để làm bằng chứng.
Khi Huyền Quang rời hoàng cung trở về nơi tu
hành, thì mấy ngày sau, Điểm Bích cũng lên đường theo sau, trong trang phục một
thôn nữ.
Hôm ấy, Huyền Quang đang ngồi đọc kinh tại thiền
trai. Đây là ngôi nhà nhỏ lấp mình sau lau trúc rất tĩnh mịch mà nhà vua sai cất
lên để Thiền sư nghỉ ngơi riêng, sau những ngày hành lễ và giảng kinh ở viêïn
Trúc lâm mệt mỏi.
Vào khoảng chiều tà, bỗng chú tiểu giúp việc
đưa vào trình trước nhà sư một người con gái có vẻ mặt hoảng hốt và xống áo tơi
tả. Chú tiểu thưa:
- Bạch thầy. Người này bị cướp đuổi vừa chạy vừa
kêu. Con đã chạy ra và dẫn cô ta vào đây.
Cô gái (chính là Điểm Bích) cũng khóc sướt mướt,
kể lại sự tình, rồi xin nhà chùa cho nghỉ lại đêm nay.
Huyền Quang vốn lòng độ lượng, chẳng nỡ chối từ.
Vả lại, trời đã tối, xung quanh lại vắng vẻ, cô gái biết đi đâu bây giờ. Thiền
sư bèn bảo chú tiểu sắp sếp cho cô gái một chỗ nghỉ ở gian bếp bên cạnh thiền
trai.
Đêm ấy, như thường lệ, Huyền Quang vẫn ngồi đọc
kinh niệm Phật, mãi tới khuya mà chưa đi ngủ.
Ở gian trái, khi chú tiểu đã lên giường và cất
tiếng ngáy nhè nhẹ như mọi lần, thì cũng là lúc, ở bên ngoài thiền trai, có tiếng
cô gái rên rỉ. Tiếng rên rỉ mỗi lúc mỗi to khiến Huyền Quang phải bỏ quyển kinh
xuống lắng nghe, rồi đi sang gian trái, đánh thức chú tiểu dậy, nói đi hỏi cô
gái xem sự thể thế nào. Cô gái nói rằng mình sợ ma và kẻ cướp bất thình lình lẻn
đến, nên không ngủ được. Chú tiểu vào báo. Bất đắc dĩ, Huyền Quang phải nói chú
tiểu cho cô gái vào phòng khách nghỉ tạm.
Thiền trai rất đơn giản. Đó là ngôi nhà tranh,
hai gian hai trái. Một trái đựng dụng cụ, đồ đạc. Một trái nữa chú tiểu ở, còn
hai gian chính thì một là trai phòng của Huyền Quang và một là phòng ăn chỗ tiếp
khách. Phòng này nằm ở giữa.
Chừng lúc lâu sau, khi chú tiểu đã về gian
trái ngủ lại, và Huyền Quang cũng thôi không đọc kinh, chuẩn bị đi nằm, thì ở
gian khách lại vẳng ra lời cầu cứu khẩn thiết của người con gái. Cực chẳng đã,
Huyền Quang lại phải thắp nến và bước ra khỏi trai phòng. Vừa mở cửa, qua ánh nến
le lói, Huyền Quang thấy ngay người con gái ăn mặc lả lơi, nên Ngài quay mặt
đi, lùi lại trai phòng. Cũng lúc ấy, cô gái (tức Điểm Bích) bật dậy, chạy vào
theo. Huyền Quang nghiêm nét mặt lại, hỏi:
- A di đà Phật! Nàng là ai? Tại sao đêm hôm
dám đường đột vào đây để quấy rối kẻ tu hành? Nếu không mau mau cải tà quy
chính, ta sẽ hô hoán lên, chú tiểu sẽ cầm lá dắt tay ra khỏi đây ngay bây giờ.
Thấy không thể lung lạc được Thiền sư, Điểm
Bích đã kín đáo sửa lại trang phục và đổi ngay sang thái độ khác. Nàng ta vội
vàng quỳ xuống rồi khóc lóc như mưa, vừa khóc vừa kể lại nguồn cơn "gia cảnh"
nhà mình.
Nàng cung nữ sáng dạ được vua yêu chiều, do
chuẩn bị từ trước, đã bịa hẳn ra một câu chuyện như thật. Nàng kể rằng cha nàng
làm quan ở một huyện vùng duyên hải. Màu tháng năm vừa qua cha nàng đi thu thuế
được ba ngàn quan, cho lính tải về kinh, nhưng dọc đường bị bọn cướp đón đường
cướp sạch. Quan trên thương tình cho cha nàng khuất lại đến cuối năm. Hiện nay
gia đình nàng đã bán hết tư trang điền sảng nhưng mới bù được một nửa, còn lại
một nửa, nay phải chia ra mỗi người mỗi nơi đi quyên góp cho đủ.
Tiếng khóc của nàng càng làm cho câu chuyện kể
them phần lâm ly, thống thiết. Huyền Quang lắng nghe rồi trả lời:
- Thôi nàng đừng khóc nữa. Ngày mai ta sẽ tiến
triều, tâu lại với nhà vua, xin nhà vua tha tội cho cha nàng.
Không ngờ câu chuyện lại xoay như thế, Điểm
Bích vội vàng khóc to thêm lên, rồi vừa lạy vừa xin:
- Bạch hòa thượng! Bạch hòa thượng! Xin Hòa
thượng chớ vội lên kinh. Chỉ sợ đến tai Hoàng thượng thì chẳng những việc không
thành mà có khi còn liên lụy đến ca quan trên của cha thiếp nữa. Thiếp chỉ xin
Hiòa thượng rủ lòng thương, cho cha thiếp ít tiền bạc để lo tiếp công việc mà
thôi ạ.
Huyền Quang chợt nhớ có mười nén vàng nhà vua
cho chưa biết để làm gì, bèn đến bên bàn cầm lấy rồi đưa cả cho Điểm Bích:
- Ta hiểu. Ta hiểu. Không có bằng chứng rõ
ràng thì khó xin nhà vua lắm. Thôi ta gửi biếu cha nàng số vàng này. Mong cha
con nàng sớm được tai qua nạn khỏi.
Điểm Bích cúi đầu tạ ơn, rồi cầm lấy túi vàng,
đoạn, quay ra phòng khách.
Ba ngày sau Điểm Bích trở về cung, đưa nộp mười
nén vàng và tâu với nhà vua rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh. Để nhà vua tin, Điểm
Bích đọc lên một bài thơ nói là của Huyền Quang đã làm tặng mình trước khi phá
giới. Nguyên bài thơ đó như sau:
Vằng vặc trăng mai
ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ
Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.
Sẽ nói đến bài thơ này phần sau. Chỉ biết lúc
này nghe xong câu chuyện, lại nhìn thấy mười nén vàng có ghi dấu trước khi tặng
Huyền Quang, nhà vua buồn bã lắc đầu: "Đạo Phật mà các vị tiên vương, các
vị hàng thân quốc thích từng sùng mộ, nay đã đến độ suy vi rồi sao?"
Hiểu ý, một viên quan chờ đến khi Điểm Bích
lui gót, liền ghé tai nhà vua hiến kế:
- Tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ cho lập một lễ cúng Phật
dọn toàn cỗ mặn, rồi mời thầy về làm lễ. Nếu quả là thầy còn trong sạch thì chư
Phật sẽ độ cho cỗ mặn hóa chay, còn nhược bằng thấy đã hư hỏng rồi, thì chẳng
bao giờ Phật cho độ được nữa.
Nhà vua cho là phải, bèn hạ chỉ cho vời Huyền
Quang về kinh để Thiền sư làm chủ tế trong lễ trọng thể vào dịp rằm tháng Bảy sắp
tới, mà dân chúng vẫn gọi là lễ "xá tội vong nhân".
Trái hẳn với tục lệ hàng năm, năm ấy, theo lệnh
nhà vua, cỗ chính cúng rằm tháng Bảy không bày tiệc chay, mà giết trâu, bo, lợn,
gà, ... để bày. Quái lạ hơn, xung quanh lễ đài nhà vua sai căng toàn lụa nhuộm
màu vàng.
Khi vừa bước tới lễ đài, Huyền Quang đã hiểu
ngay là nhà vua cố ý hạ nhục mình: Chỗ nào cũng lụa vàng (hìang quyến). Lục chẳng
căng cao là cho lòa xòa quệt cả xuống đất. Chẳng cần phải là đại khoa, mà ngay
cả những người học hành đôi chút, cũng thừa biết Hoàng Quyến là Hyền Quáng, tức
cũng là "Huyền Quang có nhuốm sắc". Một lời buộc tội thật rõ ràng.
Lại nữa, khi bước bào lễ đài thăm lễ vật, Huyền
Quang chẳnng thấy cỗ chay đâu mà toàn là tiệc mặn. Đích thị lại thêm một sự phỉ
báng nữa thật phũ phàng.
Huyền Quang thoáng nghiêm nét mặt, nhưng lập tức
lại thản nhiên như thường, bảo đệ tử thắp hương, rồi lớn tiếng khấn:
- A di đà Phật! Xin Trời, Phật chứng giám, phù
hộ độ trì. Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống âm ty
địa ngục, còn nếu không, thì xin cho lụa vàng bay đi và những cỗ mặn kia hóa
thành cỗ chay tất cả.
Lạ thay, khi Huyền Quang vừa dứt lời, tự nhiên
trời đất tối sầm cả lại, một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Phút chốc, đèn nến
phụt tắt, tất cả lụa quấn quanh lễ đài rách nát tả tơi, rồi theo gió cuốn tung
bay đi khắp nơi.
Một lúc sau, khi cơn bão tan, đèn nến được thắp
sáng lại, tất cả mọi người có mặt đều vô cùng ngạc nhiên, thấy cỗ tiệc mặn đã
biến thành cỗ tiệc chay, và Huyền Quang vẫn đứng uy nghi giữa lễ đài, tựa như một
vị Bồ tát hiển hiện. Vị Bồ tát tiếp tục đọc kinh rồi lễ tạ Trời Phật. Xong,
thong thả rời khỏi lễ đài.
Dân chúng và quân lính, những người vốn rất
đông đảo, từ đầu đã có mặt và chứng kiến toàn bộ sự việc, lúc ấy bèn nhảy lên
reo hó, rồi gõ trống, phách liên hồi làm vang động khắp cả kinh thành.
Có tên lính chạy về nội cung phi báo, Trnà Anh
tông lúc ấy đang ngồi trong trướng phủ, tái mặt lại, rồi lập tức xa giá tới chỗ
Huyền Quang vừa hành lễ để nói lời tạ lỗi với vị Thiền sư.
Sau đó, nhà vua lệnh bắt ngay cung nữ Điểm
Bích tống ngục, giao cho Thái gáim xét hỏi. Mấy ngày sau, Điểm Bích phải cung
kai toàn bộ gốc gác của mình và cũng cung khai tất cả sự việc đã diễn ra ở thiền
trai như thế nào.
Khi lời cung được thỉnh đến tai nhà vua, Ngài
nổi giận khép Điểm Bích vào tội chết. Hay tin, Huyền Quang vào cung, xin nhà
vua tha tội cho nàng. Trần Anh Tông thừa hiểu lỗi chính trog việc này là do
mình, nhưng vì giữ thể diện và cũng là nể lời Thiền sư, nên đã giáng Điểm Bích
xuống hàng nữ tỳ, cho theo hầu ở chùa trong cung Cảnh Linh.
Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ, một danh
sĩ hồi cuối Lê đầu Nguyễn, cách đó gần năm trăm năm, còn kể hồi bé ông có được
nghe kể chuyện về Điểm Bích và còn biết chỗ người ta đào được mộ nàng.
Việc một nhà tu hành lâu năm nhiều thuật pháp,
đã hô phong hóa vũ (gọi gió làm mưa) rồi biến cỗ mặn thành cỗ chay như Huyền
Quang đã là một mô-típ vẫn thường gặp trong truyền thuyết và các câu chuyện kể
dân gian. nhưng nếu lấy con mắt hiện thực mà nhìn vào sự kiện này thì phần nào
cũng có thể hiểu được. Chẳng hạn, nhân cón gió làm cho tắt đèn nến, các đệ tử
đông đảo của Huyền Quang có thể xông lên (nếu đèn nến chưa tắt hết thì họ có thể
thổi cho tắt hết!), họ giật các tấm lụa xé ra hoặc giấu đi rồi lấy cỗ chay đã
được chuẩn bị từ trước (tin tức làm cỗ mặn họ nhận được chắc không khó khăn lắm!)
để thay thế vào cỗ mặn. Xong xuôi, họ lại thắp đèn nến sáng lại như cũ!
Và nếu sự việc diễn ra như vậy thì đã chứng tỏ
rằng lực lượng ủng hộ Huyền Quang là khá đông đúc, và do vậy, cũng chứng tỏ, uy
tín của Huyền Quang trong đệ tử và dân chúng là rất lớn!
Một người có uy tín như vậy chẳng lẽ lại sa
ngã hoặc cưỡng bức một cô gái trẻ khi bên mình có đệ tử và mình đã ở độ tuổi
ngoài sáu mươi, trong khi người đó, ngay từ lúc trẻ đã chối từ không lấy cả
công chúa và nhiều đám danh giá giàu có khác?
Sự kiện Huyền Quang hồi trẻ từ chối những nơi
hôn phối giàu sang, và dĩ nhiên, cũng có những người tức tối. Những người tức tối.
Những người tức tối mà có quyền thế ắt hẳn sẽ gièm pha hoặc có những hành vi thế
này thế khác, như việc "thử" Huyền Quang chẳng hạn.
Việc Huyền Quang nhận 10 nén vàng (có truyền
thuyết còn nói 20 nén) của nhà vua tặng cũng bị dị nghị là "tham".
Nhưng là một sự dị nghị (hoặc buộc tội) qúa đáng. Bởi lẽ, môït người đã từ chối
lấy vợ giàu, lại từ quan để đi tu thì chẳng lẽ không chứng tỏ người ấy không
thiết tha gì đến tiền bạc hay sao? Nhận vàng, và nhận nhiều, của nhà vua tặng,
để cho tăng ni phật tử hy làm việc từ thiện thì có gì là xấu? Còn ngược lại nữa
là khác.
Bài thơ Giai nhân tức sự, đầu đề chữ Hán nhưng
nội dung lại là chữ Nôm, đã dẫn ở phần trên. Có thể có các giả thiết sau đây:
- Hoặc là bài thơ của Điểm Bích (vì Điểm Bích
cũng giỏi chữ nghĩa, là "nữ thần đồng") hay của người nào đó, cũng
khá tài hoa, lại từng đọc thơ Huyền Quang, đã làm (vì Điểm Bích và môït vài người
nào đó có đủ thời gian để sắp đặt và làm viêïc này).
- Hoặc là bài thơ của Huyền Quang đã làm thật.
Vì Điểm Bích đêm đó đã ở trong phòng khách. Nếu đêm đó có đèn nến thì biết ngay
chỗ để các tập thơ của Huyền Quang! Hoặc giả, nếu không có đèn nến thì sáng hôm
sau cũng có thể biết. Thông thường, các vị chức sắc ngày xưa (vua, quan) và chức
sắc tôn giáo (nhà tu hành) có làm thơ, nhưng trong quan niệm giữa việc riêng và
việc chung vốn rất rõ ràng: giờ nào việc nấy và chỗ nào chỗ nấy. Cho nên rất có
thể cho rằng Huyền Quang làm thơ và để thơ ở ngoài phòng khách, còn trong trai
phòng chỉ dành riêng cho sách Phật và sự tụng niệm.
Bài thơ mà Điểm Bích đã đọc cho Trần Anh Tông
nghe và nói là của Huyền Quang tặng mình ấy cũng khá "đa nghĩa".
- Một nghĩa có thể hiểu ở khía cạnh trần trục,
ở sự khêu gợi dục tình: Trăng, gió, nước đều khêu gợi, cảnh thì lạ, mà người
thì ở trạng thái khá "tự nhiên": Tươi tốt. Do vậy, câu cuối chẳng những
hạ thấp Huyền Quang mà còn hạ thấp đạo Phật: Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình?
Nghĩa là cũng bị cám dỗ cả!
Nếu hiểu ở nghĩa trần tục này thì khó có thể
chấp nhận đấy là bài thơ của Huyền Quang khi ông đã là vị Thiền sư của bậc cao
nhất!
- Một nghĩa khác, rộng hơn, có thể hiểu: Bài
thơ muốn đạt tới một cái đẹp tuyệt đối, một sự hòa hợp tuyệt đối! Trăng, gió,
nước, cảnh vật vừa khêu gợi vừa tuyệt đẹp. Còn con người tươi tốt thì không nhất
thiết cứ phải là con người đẹp ăn mặc hớ hênh mà còn là con người đẹp nhưng ăn
mặc chẳng hớ hênh. Và như vậy, câu cuối cũng có thể hiểu: người sáng lập đạo Phật
và những người theo đạo Phật chẳng bao giờ vô tình với cái đẹp, cái đẹp của
thiên nhiên cũng như cái đẹp của con người.
Từ đó, có thể thấy ở đây con người và thiên
nhiên là vô cùng hòa hợp, trong một cái đẹp thật lý tưởng. Những người theo đạo
Phật chỉ chủ trương diệt dục và không có quan hệ giới tính chứ chưa bao giờ từ
bỏ cái đẹp, từ bỏ mỹ cảm. Vả lại, nếu quan sát các pho tượng Phật ta sẽ thấy,
trừ qủy Sa Tăng và một vài nhân vật dữ tợn khác, còn lại tất cả đều chaÜng là
những hình dáng, khuôn mặt đẹp và phúc hậu đó sau?
Và nếu chấp nhận cái hiểu ở khía cạnh này thì
có thể cho rằng Huyền Quang đã làm bài thơ này và đó là bài thơ tuyệt tác, xứng
đáng với một vị Thiền sư đại khoa có hy vọng bậc nhất!
Điểm lại những đặc điểm nội dung chính của tập
"Ngọc Tiên" ta sẽ thấy Huyền Quang chưa một lần quan trọng hóa địa vị
và công việc của mình, trái lại, đã có lúc ông còn tự trào về địa vị và công việc
đó nữa. Ông đánh giá tâm tư tình cảm con người ở khía cạnh " người"
chứ không phải ở sự thuyết pháp. Sự ưu tư , nổi day dứt của ông trước con người
bất hạnh và những thăng trầm nhân thế là xuất phát từ con tim, khối óc của con
người đã từng chịu đựng, đã từng nghiền ngẫm, lại đã từng vượt qua, theo cái
đích hướng thiện của một đại tri thức và của một đại tín đồ đạo Phật. Thiên
nhiên trong thơ Huyền Quang không những đẹp, tinh tế, mà luôn luôn có hồn và gắn
bó mật thiết với con người.
Như vậy, nếu xét một cách hệ thống ở Huyền
Quang từ hành vi, ứng xử, đến thơ ca, đều có một sự thống nhất không thể chia
cách và theo một định hướng rõ ràng đến cái tuyệt đối. Những cái đó đều thuộc
loại " ngoại cỡ" trong thời kỳ của ông, và có lẽ không chỉ trong thời
đại của ông!
Từ ông nảy sinh ta nhiều truyền thuyết, huyền
thoại, chẳng những trong dân chúng, mà cả trong giới có học, đỗ đạt cao và nắm
giữ các chức vụ lớn trong xã hội trước kia. Và có nhiều cách bình luận.
Tầm vóc tinh thần và bản lĩnh của Huyền Quang
đến nay vẫn còn là đề tài để mọi người suy ngẫm và lý giải, mặc dù đã bảy thế kỷ
trôi qua.
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên.
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ
Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.