Đại Thánh Từ Đạo Hạnh
Ngài họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, sống vào
thời Lý Nhân Tông, tu tại chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai,
Sơn Tây. Là nhà tu hành nổi tiếng thông tuệ, uyên bác, có nhiều thuật pháp cao
siêu, được đương thời và hậu thế xưng tụng là bậc đại thánh.
Cha Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh, thuở nhỏ xuất gia
theo học đạo Phật, nhưng sau đó hoàn tục làm chức Đô sát ngạch tăng quan đời
Lý, trong kinh thành. Những lúc rỗi rãi, Từ Vinh thường đến làng An Lãng ở phía
tây kinh thành (tức làng Láng bây giờ) dạo chơi, rồi quen biết và lấy một người
con gái làng ấy tên gọi Tăng Thị Loan. Ông bà sinh được hai người con, một gái
một trai. Đạo Hạnh là con thứ hai. Nhà cũng làm ở trên mảnh đất phía Nam của
làng ấy (nay là chùa Láng).
Về sau người ta bảo rằng kiểu đất mà ông Từ
Vinh dựng nhà là kiểu đất quý, nên sinh được Từ Đạo Hạnh ngay từ nhỏ đã có khí
cốt tiên Phật. Tuy vậy, khi đến tuổi cấp sách đến trường Từ Đạo Hạnh cũng chỉ
chơi bời như mọi trẻ con khác, và nếu có điều gì khác thường là ở chỗ: Từ Đạo Hạnh
có những cử chỉ mà người xung quanh ít khi lường tới được.
Bạn bè mà Đạo Hạnh kết giao ở tuổi thanh niên
gồm có ba vị: Một là nho sinh tên gọi Phi Sinh, một là đạo sĩ tên gọi Lê Toàn
Nghĩa, và một nữa là người hay đàn hay hát tên gọi Phan Ất. Cả bốn người ban
ngày thường hay tụ tập nhau lại để đá cầu, thổi sáo, đánh bài và bày ra các trò
vui nhộn. Ông Từ Vinh, vốn quan tâm đến sự học hành và sự nghiệp của con sau
này, đã nhiều lần trách mắng Từ Đạo Hạnh là đồ lêu lổng, dông dài, nhưng bên
ngoài xem ra chàng ta cũng chẳng mấy biến chuyển.
Một hôm đêm đã khuya, ông Từ Vinh vào buồng học
của con, thấy sách vở bày ra la liệt, ngọn đèn dầu lạc đã cháy gần tàn mà con
ông vẫn đang tay cầm quyển sách, vừa học vừa ngủ gật. Ông hài lòng, biết là con
vẫn chăm học, còn sự chơi bời ban ngày chẳng qua là thói thường của tuổi thanh
niên. Sau đó ít lâu, nhà vua mở khoa thi Bạch Liên, quả nhiên, Từ Đạo Hạnh đã đỗ
thứ nhất thật.
Nhưng chẳng may, trong thời gian ấy, trước kỳ
thi chỉ ít ngày, thì ông Từ Vinh có xích mích với ông Diên thành hầu nhà ở mạn
cầu An Quyến cạnh sông Tô Lịch (Còn nhà của Từ Vinh ở An Lãng thuộc phía trên,
cũng cạnh sông Tô Lịch). Trong nhà của Diên thành hầu có nuôi một vị pháp sư
tên gọi Đại Điên, pháp thuật cao cường. Đại Điên đã đến nhà, dùng bùa phép giết
chết ông Từ Vinh, rồi vứt xác xuống sông. Xác trôi đến trước cửa nhà Diên thành
hầu thì tự nhiên dừng lại, suốt một ngày quanh quẩn ở đấy, không chịu trôi đi.
Đại Điên xuống tận nơi hét to lên rằng: "Người tu hành không được giận mãn
kiếp. Sống chỉ là một trường đùa bỡn, còn chết mới thành đạo Bồ đề!"
Đại Điên vừa dứt lời thì xác Từ Vinh trôi đi
liền, nhưng đến xã Nhân Mục thì lại dừng thêm một lần nữa. Người làng này thấy
vậy cho là linh thiêng, bèn vớt lên hậu táng, rồi sau đó dựng lăng miếu và đắp
tượng thờ, hàng năm tổ chức tế lễ vào ngày mồng 10 tháng giêng, là ngày giỗ của
Từ Vinh.
Bà Tăng Thị Loan, sau đó mấy tháng cũng buồn rầu
mà chết. Mộ bà táng tại chùa Ba Lăng ở xã Thượng An. Sau này Từ Đạo Hạnh hiển đạt,
chùa Ba Lăng (sau cải là chùa Hoa Lăng) được chọn làm nơi thờ cha mẹ của Ngài,
gọi là chùa Thánh phụ và Thánh mẫu.
Lại nói về Từ Đạo Hạnh, sau khi đỗ đạt gặp lúc
gia cảnh đau buồn, tang tóc như thế, nên không ra làm quan, mà ở nhà nung nấu ý
chí phục thù cho cha. Một hôm, rình lúc Đại Điên đi ra ngoài dường, Từ Đạo Hạnh
câmg gậy xông đến toan gây sự để đánh chết, nhưng chợt nghe trên không có tiếng
hét lớn: "Không được! Thôi ngay đi!". Thế là Từ Đạo Hạnh đành bỏ gậy
xuống ra về, trong lòng vừa buồn bực vừa đau xót.
Biết mình không có pháp thuật gì thì làm sao
mà đánh lại Đại Điên được, nên Từ Đạo Hạnh cất công sang tận chùa bên Ấn Độ để
cầu phép lạ. Tuy vậy, khi qua đất có người răng vàng ở, Đạo Hạnh thấy núi non
hiểm trở không thể vượt qua được, bèn quay lại, tìm đến chùa Thiên Phúc ở trên
núi Sài Sơn để ẩn cư. Từ đấy Từ Đạo Hạnh chuyên tâm đọc kinh Đại bi đà la.
Đây là bộ kinh dày, nói về giáo lý của nhà Phật
và cũng chứa đựng cả những thuật pháp cao siêu, mà phải là người thông minh, có
trí lực, lại kiên trì, mới có thể đọc vàhiểu thấu nổi. Vậy mà Đạo Hạnh đã dày
công, đọc đủ mười vạn tám nghìn (18.000) lần bản kinh ấy. Xem thế đủ biết, Ngài
đã dụng công và kiên trì đến mức nào rồi!
Ở trước chùa Thiên Phúc nơi Ngài tu luyện ngày
ấy có hai cây thông cổ thụ, dân chúng trong vùng vẫn quen gọi là hai cây
"rồng". Do ngày nào cũng như ngày nào, Đạo Hạnh đều trông vào cây mà
đọc thần chú lấy từ kinh Đại bi đà la ra, cho nên đến khi cây phải rơi rụng dần
cành lá, rồi biến mất đi cả, thì Ngài hiểu Đức Quan Thế Âm đã ứng hộ vào lời
chú của Ngài. Từ đấy, Ngài lại càng ra sức đọc kinh và niệm chú nhiều và chăm
hơn nữa, để cầu cho lời của Ngài được thấu đến tận Thiên cung.
Một hôm đang ngồi tụng niệm, quả nhiên Ngài thấy
một thần nhân cưỡi mây từ không trung sà xuống trước mặt, đứng lơ lửng chân
không sát đất, mà nói:
- Đệ tử là Trấn Thiên Vương, cảm phục thầy dày
công tu luyện, lại kiên trì tụng kinh niệm Phật, nên lại đây để thầy sai khiến.
Đạo Hạnh vô cùng hài lòng, gật đầu thu nạp đệ
tử, rồi hẹn khi nào cần sẽ thỉnh đến sau. Trấn Thiên Vương lại biến lên mây bay
đi liền.
Vẫn canh cánh mối thù cha chưa trả được, một
hôm Từ Đạo Hạnh xuống núi, cầm gậy ném xuống dòng nước đang chảy xiết. Gậy tự
nhiên dựng đứng lên, rồi đi ngược cả dòng nước. Đạo Hạnh cả mừng, tự nhủ:
"Phép của ta đã thắng được Đại Điên rồi!"
Thế là Đạo Hạnh thu lấy gậy, đi thẳng tới nhà
Đại Điên. Vừa giáp mặt, Đại Điên đã cười khảy: "Thằng nhãi kia! Mày không
nhớ chuyện lần trước hay sao mà còn dám đến đây?" Đạo Hạnh cả giận, chẳng
thèm trả lời, nhưng miệng nhẩm thần chú thỉnh Trấn Thiên Vương tới, rồi cứ thế
cầm gậy đánh cho Đại Điên ngã dúi dụi. Đại Điên trở tay không kịp và trên không
trung lúc ấy cũng tịnh không có một tiếng gì để ngăn lại như lần trước, vì vậy,
chỉ được một lát thì Đại Điên đã lăn ra chết.
Đạo Hạnh bèn kéo xác Đại Điên ra bờ sông Tô Lịch,
rồi quăng xác xuống, như trước kia Đại Điên đã từng làm như thế với Từ Vinh.
Thế là thù xưa đã trả xong, mối tục lụy trong
lòng Đạo Hạnh cũng lắng lại. Từ đó, Đạo Hạnh thường đi du ngoạn các nơi để tìm
lại dấu Phật, nhất là ở các miền núi cao rừng thẳm, và Ngài thỉnh thoảng cũng gặp
gỡ, đàm đạo với các bậc cao tăng nổi tiếng đương thời.
Một lần, tới vùng Thía Bình, nghe nói ơ chùa
Bình Hóa có Kiều Trí Huyền là vị cao tăng, nên Ngài tìm đến ra mắt. trong khi
đàm đạo về lẽ "chân tâm", Ngài đọc một bài kệ như sau:
Cửu hỗn phong trần vị
thức câm (kim)
Bất tri hà xứ thị chân
tâm
Nguyện thừa chỉ giáo
khai phương tiện
Tiện kiến bồ đề đoạn khổ
tầm.
Dịch ý:
Lâu nay bị gió bụi làm
vẩn nên không thấy được vàng
(Cho nên) không biết
nơi nào mới đích thực là chân tâm
Nguyện được nghe lời chỉ
giáo mở lòng
(Để) thấy được bồ đề,
không phải khổ công đi tìm tòi.
Kiều Trí Huyền nghe xong, đọc lại bài kệ đáp lại:
Ngũ âm bí quyết diễn
chân câm (kim)
Cá trung mãn nguyệt lộ
thiền tâm
Hà sa giác thị bồ đề đạo
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn
tầm.
Dịch ý:
Bí quyết năm âm biểu hiện
rõ ràng thực
Trong đó, đầy tháng sẽ
lộ rõ lòng thiền
Cát ven sông nhìn thấy
đó thực là Bồ đề (vậy)
(Còn) hướng tới Bồ đề
mà đi tìm thì càng thêm xa cách.
Đạo Hạnh nghe thấy thế, trong lòng cảm thấy
hoang mang quá, bèn cáo biệt, rồi tìm đến chùa Pháp Vân ở núi Pháp Linh, yết kiến
thiền sư Phạm Hội. Đạo Hạnh hỏi thiền sư: "Như thế nào là chân tâm?".
Thiền sư trả lời: "A nan cá chính là chân tâm".
Đạo Hạnh bỗng nhiên thấy tỉnh ngộ liền. Lời
thiền sư thật giản dị: "Cái gì mà chẳng là chân tâm", vậy mà lại đúng
với suy nghĩ và tâm niệm của Đạo Hạnh bấy lâu nay. Ngài bèn hỏi tiếp: "Thế
nào là phép hành trụ?. Thiền sư lại trả lời: "Đói thì ăn, khát thì uống".
Đạo Hạnh càng tỉnh ngộ, bèn bái biệt thiền sư mà ra về, tiếp tục cuộc đời tu
luyện như trước.
Từ đó, phép lực của Ngài càng ngày càng mạnh,
duyên thiền của Ngài càng ngày càng kết, đến nỗi các giống rắn núi, các loài
thú đồng đều đến quấn quýt xung quanh, chờ Ngài sai bảo. Ngài lại biết cả các
phương thuốc chữa bệnh cho dân sở tại đến cầu xin, hoặc "hô phong hóa
vũ" để cứu những cánh đồng hoa mùa đang bị khô héo vì gặp hạn hán, v.v ...
Tiếng tăm của Ngài vì thế mà truyền mãi ra xa,
từ trong triều ngoài nội đến khắp mọi miền đất nước, ở đâu cũng thấy nhắc đến cả.
Khi ấy vua Lý Nhân Tông đang trị vì, Ngài
không có con trai, đi cầu tự mãi cũng không được. Em ruột của Nhân Tông là Sùng
Hiền hầu (đều là con Lý Thánh Tông và Ỷ Lan Thái hậu) lúc ấy cũng chưa có con
trai, thấy vậy, bèn mời Từ Đạo Hạnh đến nhà để cầu tự cho mình, ngõ hầu sau này
con mình sẽ được làm Thái tử. Từ Đạo Hạnh nhận lời, nhưng là trong tình thế bất
đắc dĩ.
Nguyên do là năm Hội tường Đại khánh thứ ba
(1112), ở phủ Thanh Hóa có người đưa tin về triều nói rằng: "Ở bãi bể có đứa
trẻ kỳ lạ, tuổi mới lên ba, tự xưng là Hoàng tử, lại lấy hiệu là Giác Hoàng,
phàm vua làm điều gì, tuy ở nơi rất xa mà đứa trẻ ấy cũng đều biết cả".
Nhà vua cho quan trung sứ đến tận nơi xem, thấy đúng như tin đồn, bèn đưa đứa
trẻ về Kinh đô , cho ở trong chùa Báo Thiên. Nhà vua đến chùa thấy quả nó cũng
thông minh, linh lợi thực, đã muốn nhận làm con nuôi, nhưng quần thần thảy đều
can là không nên. Họ nói: "Nếu đứa trẻ thật là linh dị ắt sẽ phải thác
sinh vào nơi cung cấm thì sau này thì mới có thể lập được. Còn bây giờ làm như
thế e chỉ rối thêm phép nước". Lý Nhân Tông nghe lời, rồi cho mở đại hội bảy
ngày bảy đêm, để cho các thiên thần, thiên tướng ở đâu thì về đầu thai nơi cung
cấm.
Tuy đang tu hành ở chùa Thiên Phúc cách kha xa
Kinh đô , nhưng Từ Đạo Hạnh cũng biết được tin nay, Ngài lại còn biết thêm được
điều mà nhiều người không biết, ấy là đứa trẻ ở bãi Thanh Hóa kia chính là nhà
sư Đại Điên thác sinh mà thành. Nghĩ rằng Đại Điên hậu sinh mà được vào trong
cung vua, rồi sau đó được làm Thái tử và lên làm vua, thì sẽ gây tai họa cho mọi
người, trong đó có cả bản thân và gia đình Ngài, vì Đại Điên chính là kẻ thù cũ
của Ngài. Vì vậy, Ngài bèn ra tay diệt trừ Đại Điên hậu sinh (tức Giác Hoàng)
trước. Ngài làm mấy tấm bùa, bảo chị gái giả làm người đi xem hội rồi nhân đó
mà yểm (dán) vào chỗ Giác Hoàng đang ở. Quả nhiên, ba ngày sau Giác Hoàng tự
nhiên phát bệnh, lúc sắp mất nói với mọi người rằng "Khắp các ngả đường đều
có lưới sắt bủa vây, ta muốn thác sinh vào làm con của vua mà không có cách nào
cả, vậy ta phải làm ma xuống chầu Diêm Vương thôi". Nói rồi nhắm mắt, ngừng
thở.
Khi tin Giác Hoàng chết báo về cung vua, Lý
Nhân tông xiết bao tức giận. Ngài lập tức cho quan trung sứ phái lính đi bắt Từ
Đạo Hạnh về nhà giam trong hoàng cung, bởi vì Ngài, theo lời đồn đại tin rằng
Giác Hoàng là hậu sinh của Đại Điên, mà trước kia Đại Điên đã có thù với Từ Đạo
Hạnh thật. Hơn nữa, chỉ có pháp thuật củaTừ Đạo Hạnh mới có thể diệt trừ được
Giác Hoàng như thế mà thôi.
Nhưng khi Đạo Hạnh đang bị giam thì Sùng Hiền
hầu đi ngang qua. Nghĩ rằng Đạo Hạnh đã trừ được Giác Hoàng thì ắt cũng có thể
có cách để cầu tự cho mình sinh con trai, nên Sùng Hiền hầu xin Lý Nhân Tông
tha cho Từ Đạo Hạnh, rồi mời Ngài về nhà ở một vài ngày.
Cảm cái ơn cứu mạng của Sùng Hiền hầu, vì vậy,
sau khi nghe Sùng Hiền hầu giải bày ước vọng, Từ Đạo Hạnh đã nhận lời, và dặn
thêm trước lúc ra về: "Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì phải cho người
đến báo để tôi biết trước".
Quả nhiên, khi về chùa Thiên Phúc, Từ Đạo Hạnh
khẩn với thần núi, ba năm sau phu nhân của Sùng Hiền hầu có mang, rồi sinh ra
Lý Dương Hoán, tức Lý Thần Tông sau này.
Lúc người nhà của Sùng Hiền hầu lên chùa báo
phu nhân đang trở dạ, thì Từ Đạo Hạnh đi tắm rửa , thay quần áo, rồi trở lại
nói với các đệ tử rằng:
- Mối nhân duyên của ta còn chưa hết. Ta phải
tạm thác sinh làm đế vương trong thời hạn gần một kỷ (12 năm). Đến lúc ấy, nếu
thấy thân thể ta rữa nát thì mới là lúc ta không còn ở cõi đời này nữa. Vì vậy,
bây giờ các con chớ nên than khóc làm gì.
Nói xong, Đạo Hạnh lại đọc bài kệ tiếp:
Thù lai bất báo nhạn
lai quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm
phát bi
Vị cố môn nhân lưu luyến
chước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
Dịch ý:Thu tới không
báo cho chim nhạn biết trước
Cười nhạt mà nhìn nhân
gian đau xót
Khẽ bảo các đệ tử (môn
nhân) chớ nên luyến tiếc
Thầy xưa độ mới một kỷ
lại hóa thành thầy này.
Dứt lời đọc, Từ Đạo Hạnh đang ngồi rồi bỗng
nhiên mà hóa.
Sách Việt Điện U Linh chép rằng, Ngài
"lên động tiên, đập đầu vào vách đá, nện chân lên bàn đá rồi hóa. Nay vết
đầu và vết chân trên đá vẫn còn in", xét ra cũng có phần nói quá về cái chết
của Ngài.
Lúc ấy các đệ tử đang có mặt đông đủ. Mọi người
vừa vô cùng thương tiếc, nhưng cũng vừa muôn phần cảm kích, bèn đặt thân xác của
thầy vào khám thờ. Lạ thay, mấy tháng sau, rồi hàng mấy trăm năm sau, nhìn vào
vẫn thấy nét mặt của thầy còn tươi như lúc còn sống và xung quanh lại có thêm
mùi hương thơm nức. Ai ai cũng đều cho rằng thầy chính là tiên, là phật đã thác
sinh xuống cõi trần này.
Lại nói về phu nhân của Sùng Hiền hầu. Chính
lúc bà đang trở dạ đẻ thì Từ Đạo Hạnh đã hóa, rồi nhập hồn vào đứa trẻ vừa mới
ra đời đó. Sùng Hiền hầu và mọi người trong gia đình đều vô cùng mừng rỡ. Lạ
thay, đứa trẻ cứ mỗi ngày mỗi khác, chỉ nuôi nấng sơ sài mà cũng chóng lớn, lại
chưa học hành gì mà đầu óc cũng đã sáng láng, rồi càng lớn càng đẹp người, và
có nhiều tài cán lạ. Khi được ba tuổi thì Lý Nhân Tông đưa vào cung nuôi dạy, rồi
cho lập làm Hoàng Thái tử. Đến khi Nhân Tông mất, Hoàng Thái tử được nối ngôi,
trở thành vua Lý Thần Tông vào năm 1128.
Vào khoảng thời gian Từ Đạo Hạnh đang tu ở
chùa Thiên Phúc, đã có rất nhiều đệ tử đến học. Trong số các đệ tử của Ngài, có
một người thành tâm và sáng láng hơn cả, được Ngài rất mực tin yêu. Đó là Nguyễn
Chí Thành quê ở Đại Hoàng (sau đổi là Gia Viễn) thuộc miền Ninh Bình. Biết là
sau này thác sinh làm vua, đến năm 21 tuổi sẽ mắc trọng bệnh, nên Đạo Hạnh bày
cho Chí Thành biết được cách chữa trị ngay từ bây giờ. Lại truyền cả tấm ấn cho
Chí Thành và đặt tên cho là Minh Không.
Khi Từ Đạo Hạnh đã hóa, Minh Không bèn rời
chùa Thiên Phúc, về tiếp tục tu tại chùa ở quê nhà. Suốt hai mươi mốt năm sau vẫn
im hơi lặng tiếng, không ai hay biết.
Đúng năm Lý Thần tông hai mươi mốt tuổi thì bỗng
nhiên nhà vua mắc phải bệnh lạ. Mình mẩy mọc đầy lông lá, còn tâm thần thì rối
loạn, tiếng kêu đau đớn nhưng lại như tiếng cọp gầm rú, nghe rất là kinh khiếp.
Tất cả danh y trong nước đều được vời đến chữa trị cho nhà vua, nhưng thảy thảy
đều bó tay. Chính khi ấy, tại một ngôi chùa đang tu tại Gia Viễn (Ninh Bình),
Minh Không đã truyền cho trẻ chăn trâu câu ca dao để chúng hát:
"Muốn chữa Lý cửu
trùng.
Phải tìm Nguyễn Minh
Không".
Và câu hát mỗi ngày
mỗi truyền đi xa, và chẳng mấy chốc đã tới tận Kinh đô .
Triều đình hay tin, bèn cử sứ giả đi dò la trước,
quả nhiên thấy có Nguyễn Minh Không thật. Sau đó, một viên tướng dẫn nhiều binh
lính đi thuyền đến tận Gia Viễn, để mời Minh Không về Kinh đô chữa bệnh cho nhà
vua.
Khi quan quân triều đình đến, lúc ấy đã gần
trưa, Nguyễn Minh Không bèn bảo họ hãy cứ an tâm không phải lo đói. Quả nhiên,
khi niêu cơm chín, hơn một trăm người ăn thực kỳ no, mà niêu cơm cũng không thể
hết được.
Khi mọi người ăn xong, Minh Không bảo họ:
"Anh em hãy lên thuyền ngủ say cho đỡ mệt". Họ nghe lời. Nhưng chỉ
trong khoảnh khắc, Minh Không đã lại hóa phép cho thuyền cập bến ở ngay trước
kinh thành. Và khi mọi người tỉnh dậy, thấy vậy, đều hết sức lấy làm lạ lùng lắm.
Minh Không được viên tướng, sứ giả dẫn vào đến
tận chỗ nhà vua đang nằm trong tẩm điện. Ở phòng ngoài lúc ấy cũng đang có mặt
đông đủ các danh y tai mắt của triều đình vàcủa các phủ, trấn. Tất thảy bọn họ
đều béo tốt, lại ăn mặc sang trọng. Khi thấy một nhà sư có vẻ quê mùa, cổ giả đến,
thì họ liền tỏ thái độ khinh khỉnh, biểu lộ ra cả nét mặt. Họ không thèm mở miệng
đáp lại câu chào của Minh Không, hơn nữa, lại còn giương mắt ra nhìn, như ý muốn
nói: "Chuông khánh chẳng còn ăn ai. Huống hồ mảnh chĩnh vứt ngoài bụi
tre".
Cực chẳng đã, Minh Không phải rút từ trong túi
áo ra một cái đinh dài 5 tấc, đem ấn nhẹ vào cột điện. Xong xuôi, Ngài bảo các
danh y đang có mặt tại đó: "Nếu vị nào nhổ được cái đinh này, Minh Không
tôi xin bái phục làm thầy!"
Khi Ngài nhắc lại lần thứ ba thì có một vài
người mon men đến để nhổ thử. Nhưng cái đinh vẫn không nhúc nhích. Thế rồi, tất
cả các danh y đều đến để lay, nhổ, mà cũng chẳng có kết quả gì. Đến lúc ấy,
Minh Không mới nói: "Thôi, xin phép các vị, Minh Không tôi đành phải tự nhổ
lấy vậy. Ở đời vốn có câu: Dẻ cùi đẹp mã mà!"
Các vị danh y đã nhận được lời cảnh cáo. Tất cả
bọn họ vừa thẹn thùng vừa kinh ngạc khi ấy sau đó Minh Không chỉ cần dùng hai
ngón của bàn tay trái khẽ nhổ mà cái đinh đã phải bật ra, tựa hồ như người ta vẫn
nhổ một chiếc lông gà, lông chim hay một sợi tóc vậy.
Vào phòng Lý Thần Tông đang nằm, Minh Không lớn
tiếng nói:
- Kẻ đại trượng phu được tôn lên làm thiên tử,
giàu sang không ai sánh kịp, cơ sao còn phải phát bệnh cuồng loạn như vậy?
Nhà vua nghe thấy thế, đang gầm gừ bỗng nhiên
run lên cầm cập. Minh Không bảo tên đại thần túc trực cho đun một vạc dầu lớn.
Lại bảo đi tìm cho được 100 cái đinh và một cành hòe. Khi dầu sôi, Minh Không
sai thả 100 cái đinh vào đó. Một lát sau, Ngài tự tay thò vào vạc dầu vơ số
đinh ấy vứt ra, đoạn, cầm cành hòe nhúng vào dầu sôi, rảy đều khắp mình nhà
vua.
Lạ thay, chỉ trong nháy mắt, lông lá trên người
nhà vua tự nhiên rụng hết. Chẳng còn tiếng gầm gừ, cũng chẳng còn run sợ như
lúc trước. Nét mặt nhàvui tươi tỉnh dần lên, giọng nói cũng trở lại bình thường.
Nhà vua đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Sau đó, để thưởng công, Lý Thần Tông phong cho
Minh Không làm quốc sư, lại ban cho mấy trăm hộ để hưởng lộc suốt đời. Niên hiệu
Thái Bình thứ 22, Minh Không tạ thế, thọ 76 tuổi.
Về vua Lý Thần Tông, đúng như đại thánh Từ Đạo
Hạnh đã báo từ trước khi Ngài hóa, là chỉ tạm tời làm vua trong gần một kỷ
thôi. Quả nhiên, sau khi khỏi bệnh, Lý Thần Tông chỉ sống thêm được hai năm nữa.
Nhà vua mất ở tuổi 23, vào năm 1138.
Khi nhà vua vừa mất, ở chùa Thiên Phúc trên
núi Sài Sơn tự nhiên có khí thiêng bốc lên, ai ai trông thấy cũng phải kinh
hãi. Quan sở tại tâu lên, vua Lý Anh tông (con Lý Thần Tông) bèn sai đại thần đến
làm lễ quốc tế, lại tôn phong Từ Đạo Hạnh làm "Thượng đẳng tối linh thần".
Khi ấy thân xác của Từ Đạo Hạnh vẫn còn nguyên trong khám thờ, không rửa nát lại
có mùi hương thơm nức.
Gần ba trăm năm sau, khi ấy nhà Lý đã hết, cả
nhà Trần và nhà Hồ sau đó cũng đã hết. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh (1403 -
1424), nước ta đang bị ngoại bang xâm lược và đô hộ. Thi hành chính sách triệt
phá văn hóa đến tận gốc, cùng với việc thu gom sách vở, giấy tờ, hiện vật văn
hóa, ... , hoặc đem về nước, hoặc đốt bỏ đi, bọn quan quân nhà Minh cũng không
chừa đến cả "chân thân" của đại thánh Từ Đạo Hạnh.
Khi đến núi Sài Sơn, lên chùa Thiên Phúc, bọn
chúng nhìn vào khám thờ thấy Ngài vẫn còn nguyên vẹn, tươi tỉnh như khi đang sống,
lại có mùi thơm từ đấy phát ra, chất củi vào rồi châm lửa đốt.
Bọn giặc tàn bạo tuy vậy nhưng vẫn còn run sợ.
Chúng lo Ngài sẽ hiển linh gây tai họa cho chúng, nên sau khi đốt cháy, chúng
phải lượm lấy tro, đem luyện vào đất đắp thành tượng, rồi bỏ vào khám thờ, đưa
lại vào trong chùa như cũ.
Đến niên hiệu Quang Thuận (1406 - 1469) đời
vua Lê Thánh Tông, Trường Lạc hoàng hậu sai Thái úy Trình quốc công lên chùa
Thiên phúc cầu tự. Khi đang làm lễ, tự nhiên có một phiến đá bay vào đàn tràng,
trình quốc công bèn mang về trình với Hoàng hậu. Ít lâu sau, Hoàng hậu mộng thấy
rồng vàng đậu vào bên sườn, rồi có mang, sinh ra vua Lê Hiến Tông. Sau đó, để
trả ơn, Hoàng hậu sai dựng am "Hiển thụy" ở cạnh chùa Thiên Phúc, và
khắc bia để ghi lại sự tích này.
Từ đó, chùa lại càng nổi tiếng linh thiêng. Mỗi
khi có sự gì hệ trọng, dân chúng đều đến đây cầu đảo, và nhận thấy việc gì cũng
linh ứng. Tới nay, hương khói quanh năm không lúc nào dứt.
Toàn bộ phong cảnh Sài Sơn, trong đó có chùa
Thiên Phúc, từ lâu đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng, chẳng những với
khách trong nước mà còn cả với khách nước ngoài. Còn các thời trước, đây cũng
là nơi thưởng ngoạn, du xuân của nhiều vị tao nhân mặc khách. Hồ Xuân Hương,
Cao Bá Quát ... trước kia đã chân tới nơi này ...