Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu
Lê Phụng Hiểu sống vào khoảng đầu thời Lý.
Ngài là người làng Băng Sơn, nay là Hương Sơn, Dương Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Vì nhà ở gần núi Bơng, một hòn núi nhỏ ở giữa cánh đồng, nên dân chúng trong
vùng thường gọi Lê Phụng Hiểu thời trẻ là anh Bơng, rồi đến khi hiển đạt là ông
Bơng, một cái tên vừa hồn nhiên vừa thán phục. Cũng như Lý Công Uẩn, vua sáng lập
triều Lý, Lê Phụng Hiểu không có cha đẻ. Mẹ Ngài khi trước lên núi trông thấy một
dấu chân lạ to lớn khác thường bèn ướm thử bàn chân mình vào về nhà mà có mang,
rồi sinh ra Ngài.
Thuở nhỏ, Lê Phụng Hiểu không được học chữ
nhưng thiên hướng con nhà võ thì đã lộ rõ. Khi đến tuổi thanh niên, Ngài cao lớn
vạm vỡ, mặt mũi phương phi, râu quai nón rậm và có sức mạnh phi thường. Tính
tình Ngài cương trực, quyết đoán. Các môn võ nghệ, từ côn quyền đến phóng lao,
cung kiếm ... Ngài đều tinh thông. Để rèn luyện thể lực, buổi sáng Ngài thường
lên đỉnh núi Bơng, dùng một hòn đá cực lớn để tập cử tạ. Hòn đá này nặng phải đến
bốn người khỏe mạnh xúm vào mới nhấc lên nổi!
Vào mùa hội hè, Ngài thường đến các sới vật
trong vùng để tranh tài lĩnh thưởng. Tuy mới là mùa thi đấu đầu tiên, nhưng những
tay đô vật lừng lẫy nhất trong vùng, chỉ vừa mới trông thấy Ngài, đã vội chắp
tay vái dài, không dám vào giao đấu nữa.
Thời ấy, ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) cũng có
một tay đô vật kỳ tài tên là Tuấn, tục gọi là đô Vồm. Nghe tiếng ở Hoằng Hóa có
đô Bơng mới lên không ai địch nổi, đô Vồm tìm đến thách đấu.
Bữa đô Vồm tìm đến nhà đô Bơng thì thấy bà mẹ
đang lúi húi dưới bếp. Bà mẹ nói:
- Bác ráng chờ cháu một lát. Nó đi kiếm củi chắc
lúc này cũng sắp về rồi.
Quả nhiên, đang ngồi uống nước, bà mẹ đã chỉ
cho khách thấy trên con đường núi phía trước mặt một người cao lớn vạm vỡ gánh
hai bó củi to như hai bó rạ, đang đi thoăn thoắt về nhà. Bà mẹ vừa chỉ vừa nói
với khách:
-Đấy. Cháu nó đấy!
Đô Vồm chột dạ, không dám nghĩ đến chuyện
thách đấu nữa, bèn nói với bà mẹ:
- Thôi, xin phép bà để bữa khác tôi lại. Chắc
chiều nay chú ấy còn phải gánh củi đi chợ nữa ...
Nói rồi ông khách đứng dậy liền, bà mẹ giữ lại
không được. Vừa ra khỏi cổng, chân khách đã bước nhanh như chạy ...
Lê Phụng Hiểu gánh củi về nhà, thấy mẹ nói có
khách vừa ra khỏi, bèn đặt gánh củi xuống rồi chạy đi tìm. Chẳng mấy chốc Ngài
đã theo kịp khách ở giữa cánh đồng.
Lê Phụng Hiểu nói to với theo:
- Này ... bác gì ơi. Tôi về rồi. Mời bác quay
lại.
Đành lòng, đô Vồm phải dừng lại:
- À ... tôi tưởng chú bận.
Đô Bơng vồn vã:
- Nào, có bận gì đâu?
Vừa giáp mặt, cả hai đều đo lường sức mạnh của
nhau. Cả hai đều to lớn, bắp chân bắp tay cuồn cuộn.
Đô Vồm nói:
- Nghe danh chú mấy bữa nay, cũng muốn đến để
học hỏi thêm, nhưng bây giờ chắc không tiện.
Đô Bơng hiểu ý ngay: "Ông này lớn tuổi
hơn mình. Nói thế chắc là ngại đây. Nhưng dẫu sao cũng thử sức một tí cho biết
chứ?", bèn đáp lại:
- Tôi hậu sinh còn phải học bác nhiều. Tiện
đây rộng rãi, ta thử một vài "queo" cho biết. Anh hùng tao ngộ dễ mấy
khi có dịp ...
Không thể từ chối, đô Vồm đành phải cởi quần
áo ra rồi hai bên giao đấu. Ở giữa cánh đồng, không trọng tài, không khán giả,
nhưng hai bên đấu thủ đều giữ đúng luật lệ. Người tám lạng, kẻ nửa cân, đã bảy
"queo" mà chưa phân thắng bại. Tuy vậy, càng đấu, đô Bơng càng tỏ ra
dẻo dai, rồi cuối cùng đến "queo" thứ tám, đô Vồm đã phải nằm phơi bụng.
Đô Vồm nói:
- Thôi thôi! Ta phục tài chú rồi.
Đô Bơng cả cười:
- Bác cũng thực khá lắm.
Nói rồi, cả hai đứng dậy, rồi dắt nhau về nhà
uống rượu ...
Từ đó Lê Phụng Hiểu nổi tiếng là người tài cao
và hào hiệp trong suốt mấy vùng. Đi đến đâu Ngài cũng có bạn bè tâm đắc.
Một hôm, có việc Ngài đi qua hai làng Cổ Bi,
Đàm Xá, lúc ấy đang um xùm lên vì việc tranh nhau đất cát. Làng Đàm Xá cậy đông
người đã chém hẳn doi đất màu mỡ mà lẽ ra phải thuôïc làng Cổ Bi. Trai tráng
làng Cổ Bi đang cùng nhau chuẩn bị gậy gọc chống lại, còn các cụ bô lão trong
làng thì có phần tỏ ra lo lắng.
Sau khi biết mọi chuyện, Lê Phụng Hiểu tìm đến
ra mắt các cụ làng Cổ Bi mà bảo:
- Các cụ cứ yên tâm. Có tôi đây dẫu có mười
làng Đàm Xá cũng chẳng chiếm không ruộng của Cổ Bi được.
Đã nghe danh đô Bơng từ lâu nên các cụ cùng
dân làng mừng lắm, bèn làm cỗ để tiếp đãi Ngài. Cả năm mâm cỗ to, nào thịt nào
rượu, nào xôi, vậy mà Ngài cứ thủng thỉnh ngồi ăn bằng hết. Ăn xong, Ngài xúc
miệng, uống một tợp nước rồi lăn ra ngủ, tiếng gáy vang như sấm.
Chờ cho giấc ngủ của Ngài đã đẫy, trai tráng Cỗ
Bi bèn vác gậy gọc ra khiêu chiến với làng Đàm Xá. Trai tráng Đàm xá cũng vác gậy
ra vây kín cả một doi đất. Chính lúc ấy, Lê Phụng Hiểu thức dậy. Ngài vươn vai
một cái, rồi chẳng nói chẳng rằng, "phi" một hơi đến chỗ giáp chiến.
Ngài đi một đường quyền nhảy tới giật gậy trong tay một đối phương, rồi cứ thế
múa tít, đến chỗ nào người phải dãn ra đến đấy. Khoảng hơn chục tay mạnh mẽ, liều
lĩnh nhất của làng Đàm Xá xúm vào chỗ Ngài, nhưng chỉ được một chặp, hơn một nữa
đã phải ngã gục, số còn lại thì quay đầu chạy.
Ngài tiến đến những chỗ đang đánh nhau, nhưng
bấy giờ thấy gậy đã gãy, Ngài bèn quăng nó đi. Không thèm nhặt những chiếc gậy
rơi, Ngài nhổ phăng những khóm cây bên đường rồi cứ thế cầm cả cụm cây mà phang
vào đối phương, làm cho họ tối tăm mày mặt phải quay cổ chạy thục mạng.
Làng Cổ Bi toàn thắng. Làng Đàm Xá phải trả lại
doi đất, và từ đấy, hễ cứ gặp dân làng Cổ Bi là đều phải gọi một điều
"quan anh", hai điều "quan bác" cả ...
Thời bấy giờ, Lý Thái Tổ đã lên ngôi thay Lê
Ngọa triều. Vốn xuất thân là anh lính "Tứ sương quân" (tức quân bảo vệ
bốn mặt kinh thành) nên nhà vua hiểu rất rõ giá trị và tác dụng của quân túc vệ.
Ngài cho tuyển những người khỏe mạnh, can trường và trung thành nhất vào đội
quân này, để cho cùng đi theo, mỗi khi Ngài xa giá đến các nơi. Lê Phụng Hiểu,
người nổi tiếng khắp cả vùng châu Ái, lẽ dĩ nhiên phải là một trong những người
đầu tiên trúng tuyển.
Từ khi được tuyển dụng, qua mấy phen thử sức
thử tài, lại cần mẫn siêng năng, nên Lê Phụng Hiểu được nhà vua mến mộ rồi cất
nhắc dần lên tới chức Vũ vệ tướng quân, ngang hàng với các tướng Đàm Thảm,
Dương Bình, Quách Thịnh Dật, Lý Huyền Sư, vốn là những người đã được bổ dụng từ
trước. Các tướng này đều chỉ huy quân túc vệ và nằm dưới quyền cai quản của
quan Nội thị Lý Nhân Nghĩa.
Lý Thái Tổ thọ 55 tuổi (974 - 1028), ở ngôi 18
năm (1010 - 1028) băng hà ở điện Long An, và đang còn quàn tại đấy chưa chôn.
Các đại thần theo di chiếu cùng nhau đến cung
Long Đức ở ngoài thành để lập con trưởng là Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi (cung
Long Đức đặt ở ngoại thành là ý nhà vua muốn cho Thái tử biết mọi việc của
dân).
Triều Lý có lệ là lập các con của mẹ đích đều
làm "vương", còn con của mẹ thứ đều làm "hầu", mà không đặt
ngôi Hoàng Thái tử. Đến khi nào vua ốm nặng mới chọn một người trong số các con
cho vào để nối ngôi. Đây là một ý tưởng tốt vì như thế các con sẽ đua nhau làm
việc thiện, nhưng trên thực tế lại nảy ra sự ganh đua, dẫn đến những hành vi mờ
ám như sửa di chiếu hoặc dùng vũ lực để tranh cướp ngôi.
Ngay từ triều vua đầu tiên của nhà Lý khi nhà
vua vừa nằm xuống, là đã xảy ra sự không hay đó rồi. Đó là việc ba vương Đông
Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức khi nghe tin Phật Mã sẽ từ ngoài thành vào, nên cho
quân của phủ mình phục sẵn ở hai hướng, chờ Thái tử đến thì đánh úp.
Như có linh tính báo trước qua thần Đồng Cổ,
hoặc giả có người mật báo thì không rõ, Lý Phật Mã đã không đi vào con đường có
quân mai phục, khi đến điện Càn Nguyên, biết có biến, Phật Mã bèn sai quân lính
chốt chặt hết các cửa và bảo các vệ sĩ sẵng sàng đối phó. Nhà vua tương lai bảo
với mọi người:
- Ta đối với anh em không có chút gì phụ bạc.
Nay tiên đế vừa mất, ba Vương đã làm việc bất nghĩa. Vậy các khanh nghĩ sao?
Nội thị Lý Nhân Nghĩa nói:
- Anh em như chân với tay, lẽ ra phải cùng
nhau hợp sức thì bên ngoài mới chống được giặc. Nay ba Vương đã làm phản thì chỉ
coi là kẻ thù vậy. Xin điện hạ cho được một trận quyết sống mái.
Lời qua lời lại một hồi nữa nhưng Lý Phật Mã vẫn
còn dùng dằng chưa quyết. Ý của Thái tử là muốn các Vương kia tự nhận ra lỗi lầm
mà rút quân đi cho êm. Nhưng khi ấy, chẳng những ba vương không rút lui mà lại
cho quân đến vây chặt điện Càn Nguyên. Bất đắc dĩ, Phật Mã phải nói:
- Ta chỉ biết làm lễ thành phục đến hầu tiên đế,
ngoài ra đều ủy cho các khanh cả.
Lý Nhân Nghĩa cùng các tướng dưới quyền đều quỳ
xuống mà nói:
- Chết vì vua gặp nạn là chức phận của bọn thần
đây.
Nói rồi bảo vệ sĩ mở cửa và tất cả cùng xông
ra đánh quân của ba Vương kia. Một hồi lâu, cả hai bên đều chưa phân thắng bại.
Lê Phụng Hiểu tức giận, xách gươm chạy thẳng tới
cửa Quảng Phúc là nơi ba Vương đang đứng chờ. Ngài quát to:
- Các Ngài trên quên ơn tiên đế, dưới trái đạo
vua tôi. Vì vậy thần là Lê Phụng Hiểu xin dâng các Ngài lưỡi gươm này.
Nói đoạn, Ngài xông thẳng đến trước ngựa Vũ Đức
Vương. Vương này quay ngựa định tránh, nhưng đã bị lưỡi gươm của Ngài chém chết.
Hai Vương kia thấy thế kinh hãi vội vàng thúc ngựa chạy bán sống, không dám
quay cổ lại nhìn. Lê Phụng Hiểu quay trở về điện Càn Nguyên, cùng các võ sĩ
đánh tiếp các đám loạn quân, chém và bắt sống không sót một mống nào.
Dẹp xong vụ bạo loạn, Lê Phụng Hiểu cùng các
tướng đến lạy trước linh cữu Lý Thái Tổ báo tin thắng trận, rồi đi rước Lý Phật
Mã lên ngôi. Lý Thái tử nói:
- Ta được vẹn toàn tính mạng là nhờ ở các
khanh cả. Vũ Vệ tướng quân thật còn hơn cả Uất Trì Kinh Đức nhà Đường.
Lê Phụng Hiểu lạy tạ mà thưa lên:
- Đức của Điện hạ cảm động đến cả trời đất nên
được thần linh giúp đỡ, chứ công sức của hạ thần nào có đáng gì.
Ý của Lê Phụng Hiểu là nhắc lại việc Lý Phật
Mã được thần núi Đồng Cổ báo mộng nên không đi vào con đường có phục binh của
ba Vương kia. Nhà vua tương lai cả mừng, cho rằng mình xứng đáng được ở ngôi
Thiên tử vai đã được cả thần lẫn người phù trợ. Sau khi làm lễ đăng quang, Ngài
thăng luôn cho Lê Phụng Hiểu lên chức Đô thống Thượng tướng quân, tước hầu.
Năm Thiên cảm thánh vũ thứ nhất (1044), tức là
16 năm sau khi tại chức, Lý Thái Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành. Đô thống
thượng tướng Lê Phụng Hiểu được cử chỉ huy đạo quân tiên phong, đã lập được nhiều
chiến công hiển hách.
Sau trâïn đại thắng quân Chiêm, mọi người có
công đều được nhà vua ban thưởng, nhưng Lê Phụng Hiểu lại nói:
- Muôn tâu Bệ hạ. Thần không muốn được thưởng
tước mà chỉ xin Bệ hạ cho đứng ở núi Băng Sơn ném dao đi xa. Hễ dao rơi xuống
chỗ nào trong đất công, thì xin bệ hạ ban cho hạ thần làm đất sản nghiệp tới
đó.
Nhà vua cả cười:
- Đất đai của Đại Việt ta nào có thiếu gì? Chỉ
sợ tướng quân sơ ý để dao chẳng vượt chân núi là mấy, thì ta mang tiếng lắm.
Lê Phụng Hiểu kính cẩn:
- Xin đội ơn tấm lòng của Bệ hạ. Nếu phải như
vậy thì hạ thần cũng thực vui lòng, vì số trời chỉ cho có như thế.
Nhà vua gật đầu tán thưởng. Thực là một sự lạ
xưa nay chưa từng có! Ngài hạ lêïnh cho quan sở tại tổ chức một ngày hội, có
đông đủ dân chúng trong vùng đến để chứng kiến xem Đô thống Thượng tướng quân
phóng dao nhận ruộng.
Hôm tổ chức buổi lễ, mọi người nô nức đến xem
ông Bơng phóng lao. Cờ quạt rợp trời, tiếng chiêng trống vang lừng. Trên đỉnh
Băng Sơn, Lê Phụng Hiểu mình trần như một lực sĩ, tay phải cầm con dao, Ngài chạy
lấy đà rồi phóng nhanh ra phía trước mặt. Chỉ nghe vút một cái đã thấy lưỡi dao
ở giữa tầng không, lao đi như tên bắn. Đến ngút tầm mắt mọi người mới thấy lưỡi
dao chúc xuống và đi chếch đến địa phận làng Đa Mỹ.
Tiếng reo hò vang lên như sấm. Tiếng chiêng,
tiếng trống cũng khua lên liên hồi. Đích thân quan sở tại chạy đến chỗ lưỡi dao
rơi xuống, rồi cho người chăng dây quy vuông để đo đạc. Thật không thể nào tưởng
tượng nổi: hơn một ngàn mẫu đất đã nằm gọn trong vòng quy vuông ấy!
Nhà vua vui lòng ban cho Lê Phụng Hiểu số ruộng
đó để thưởng công, hàng năm không phải đóng thuế. Từ đấy trở đi ở châu Ái, hễ
ai có công được thưởng ruộng, thì đều gọi là ruộng ném dao cả.
Lê Phụng Hiểu trung thành với nhà vua hết
lòng, biết điều gì là nói luôn không giấu. Đi đánh dẹp tới đâu cũng thắng. Ngài
thọ ở tuổi bảy mươi bảy. Khi mất, dân chúng trong vùng thương tiếc, có đến mấy
nơi lập đền thờ Ngài làm phúc thần, cầu đảo mọi người rất là linh ứng.
Đời Trần, năm Trùng hưng thứ nhất
gia phong cho Ngài là Đô thống vương. Năm thứ tư, thêm hai chữ "Khuông quốc".
Năm Hưng Long 21, thêm hai chữ nữa là "Tá thánh". Đền miếu của Ngài
nguy nga, hương khói bốn mùa không lúc nào dứt. Ngày nay, ở các thành phố lớn
cũng có đường phố mang tên Ngài.
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa