Bà Chúa Ngọc - Thiên Y A Na
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh
Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà
lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa. Năm ấy, đến độ dưa chín, sáng nào ra
ruộng thăm, ông bà cũng thấy dưa bị hái trộm. Lạ một điều, chỉ có một quả dưa lớn
nhất đẹp nhất là bị hái, nhưng kẻ trộm không ăn mà cũng chẳng mang đi. Quả dưa
còn nằm ở một chỗ trống, nhưng bưng lên đã thấy bị nẫu.
Thấy sự lạ, hai ông bà bèn bàn nhau cất công để
ý rình. Rồi một đêm trăng sáng, họ đến nấp vào một bụi cây cạnh ruộng. Gần đến
nửa đêm, bỗng đâu có cô gái trạc độ mười ba mười bốn tuổi tự nhiên hiện ra ở giữa
ruộng dưa. Cô gái rón rén đi, nhìn ngắm từng quả dưa một, rồi sau đó, hình như
đã chọn được quả ưng ý nhất thì cúi xuống hái lên. Cô ngắm đi ngắm lại mãi, rồi
tìm ra một chỗ trống, tung quả dưa từ tay bên này sang tay bên kia, và cứ như
thế, một lúc lâu, sau lại ôm lấy quả dưa mà ngắm nghía mãi không biết chán ...
Đúng lúc ấy, từ chỗ nấp, hai ông bà chạy ùa cả
ra, nắm ngay lấy tay cô gái. Còn cô gái, tuy không chạy trốn kịp nhưng cũng chẳng
tỏ ra có chút gì sợ hãi. Cô trả cho họ quả dưa, và khi được hỏi thì cô lễ phép
trả lời: Cô là con nhà nghèo không còn cả cha lẫn mẹ, nhà cô ở cách đây rất xa
và cô cũng chẳng nhớ được quê mình ở đâu nữa ...
Thấy cô gái dễ thương, lại nghĩ mình không có
con cái, nên ông bà bàn nhau nhận cô về làm con nuôi, rồi cả hai cùng nói với
cô gái ...
Còn cô gái, thấy cử chỉ, lời lẽ của hai ông bà
đều chân thành thì cô im lặng lắng nghe và suy nghĩ, rồi sau đó nhận lời.
Cô theo họ về nhà. Sáng hôm sau, hai ông bà sửa
lễ gia tiên, rồi hai bên chính thức nhận nhau là bố mẹ và con cái. Từ đấy trong
ngôi nhà của họ, không khí vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Hai ông bà hết lòng yêu
thương chăm sóc cô, còn cô thì cũng rất mực yêu thương kính trọng bố mẹ.
Một hôm trời đổ cơn mưa lớn, nước lũ ở thượng
nguồn tràn về mênh mang, khiến mọi người đều ở trong nhà không ai đi làm được cả.
Bố mẹ cô, lẽ dĩ nhiên là rất lo lắng, mong sao cho nước mau cạn để cây cối khỏi
bị chết úng, thì cô, do tính tình còn trẻ dại, lại thích nô đùa. Rồi cô xuống
bên mé nước cậy đá lên, xếp chúng thành một hòn núi giả, lại đi tìm những cành
lá gẫy cắm vào xung quanh, để chơi ...
Thấy vậy, ông bà bực quá, nghĩ rằng con cái chẳng
hiểu được lòng bố mẹ, bèn lên tiếng trách cứ rồi la mắng. Nào ngờ, cô gái thấy
tủi thân quá, bèn lủi ra đầu hồi nhà, đứng khóc một mình. Một lúc lâu sau, nhân
lúc bố mẹ không ai để ý, cô lại lén ra khỏi nhà, rồi men theo những dải đất
cao, đi ra phía bờ biển. Cũng lúc ấy, dập dềnh bên mé nước có một cây gỗ kỳ
nam, không biết trôi từ đâu đến. Cô gái còn khóc hồi nữa, rồi nhìn quanh nhìn
quẩn, thấy mình hoàn toàn lẻ loi, cô đơn, cô bèn nhảy luôn lên cây gỗ, và một
điều kỳ lạ xảy ra: Cô gái đã nhập thân vào cây gỗ. Cây gỗ dập dềnh ở đấy một
lúc nữa, như có điều gì còn ghi nhớ và lưu luyến, rồi sau đó, theo sóng biển,
trôi mãi lên phương Bắc ...
Ông bà bố mẹ nuôi cô gái đang bận việc chẻ củi
và may vá trong nhà, tưởng con khóc rồi chơi ở ngoài đầu hồi, nên cũng không để
ý. Đến mãi sau, khi lên tiếng gọi thì chẳng thấy con đâu! Hai ông bà bèn nháo
nhào đi tìm nhưng khắp chốn cùng nơi, cũng vẫn tuyệt âm vô tín. Nước lụt mênh
mang như thế, lại đang cuộn chảy mãi ra biển, họ cho là con gái xảy chân đã
trôi ra biển mất rồi. Thế là ông bà gào thét, khóc than thảm thiết, sau đó làm
lễ cúng chay cho con, và từ đấy trở đi, sống âm thầm, rầu rĩ cho đến cuối đời
...
Còn cây gỗ kỳ nam, sau một hồi dập dềnh rồi
trôi lên phương Bắc, và cứ thế trôi mãi ... trôi mãi ... Đến khi sóng lặng gió
yên thì đã trôi được cả ngàn dặm đường và dạt vào bờ ...
Một buổi sáng dân địa phương nọ ra bờ biển,
vô cùng ngạc nhiên thấy có cây gỗ lạ rất đẹp trôi từ đâu đến. Họ bảo nhau mang
thừng chão ra buộc vào rồi cùng kéo lên bờ, nhưng hàng trăm người xúm vào mà
cây vẫn không nhúc nhích. Họ bèn đóng cọc ghim lại để tìm kế sách khác, và cũng
từ đấy, dường như ngay tức khắc, tiếng đồn về cây gỗ kỳ lạ đã lan ra khắp cả
vùng.
Hoàng tử ở phương Bắc bấy giờ vào tuổi kén vợ,
đang đi chu du khắp chốn cùng nơi để tìm cho ra một người ưng ý. Khi đến vùng
này, nghe chuyện cây gỗ kỳ lạ, chàng cũng tò mò tìm đến. Thấy cây gỗ đẹp thì có
đẹp nhưng cũng không lớn lắm mà sao cả trăm người kéo không được thì chàng lấy
làm lạ lắm. Cũng vẫn là tò mò, chàng xắn tay áo lên, bảo mọi người cho mình kéo
thử một cái xem sao.
Chiều ý Hoàng tử, mọi người lui cả ra. Nhưng
thật vô cùng bất ngờ, khi hoàng tử vừa cầm thừng co tay lại thì cây gỗ cũng lập
tức chuyển động, rồi dần dần, theo sức kéo mà tiến vào bờ. Đến khi chạm đất,
Hoàng tử kéo mạnh một cái nữa thì cây hoàn toàn đã nằm trên bãi biển.
Mọi người vô cùng phấn khởi, vỗ tay reo hò
không ngớt. Xong xuôi, sau khi hỏi ý kiến dân làng, Hoàng tử cho quân lính đem
cây gỗ về Kinh đô .
Về phía dân làng, tuy cũng có người còn tiếc rẻ,
nhưng đa phần cho rằng, đưa cây gỗ về kinh là hợp lý hơn cả vì như vậy tất cả
bàn dân thiên hạ sẽ đều được chiêm ngưỡng. Còn về phía Hoàng tử thì cũng chẳng
có vui mừng nào hơn, chàng cho là có duyên cớ, bèn không tiếp tục đi tìm vợ nữa,
mà cùng quân lính trở về kinh, cùng với cây gỗ.
Khỏi phải nói, khi về đến Kinh đô thì mọi người,
mọi nơi nghe tiếng, nao nức tìm đến xem đông như thế nào. Nhưng rồi sự kiện ấy
cũng mau chóng qua đi bởi lẽ mọi người nhìn mãi rồi cũng chán, vì cây đẹp thì
có đẹp nhưng chẳng thấy có biểu hiện gì là lạ lùng cả. Mà dân chúng cần là cần
sự lạ lùng, xưa nay chưa từng có, chứ không phải là một cái cây đẹp.
Chỉ riêng có Hoàng tử, do chính tay mình đã chứng
kiến và thực hiện được một điều kỳ diệu, nên còn giữ mãi trong lòng sự vui mừng
và niềm mong đợi. Khi mọi người đã xem chán xem chê, đến mức không còn ai thiết
xem nữa, thì Hoàng tử mới sai quân lính đem cây về trước Đông cung để hàng ngày
được nhìn ngắm và gần gũi với cây.
Cây quả là đã có tình ý với Hoàng tử thật. Từ
đó trở đi, mỗi đêm trăng sáng, Hoàng tử bỗng thấy trong thân gỗ bước ra một người
con gái xinh đẹp tuyệt trần, và cùng lúc, là mùi hương thơm ngào ngạt tỏa ra
theo mỗi bước chân của nàng.
Mê mẩn trước người đẹp, Hoàng tử vội vàng chạy
tới, nhưng lần nào cũng vậy, hễ cứ giáp mặt, là người con gái lại biến ngay vào
trong thân gỗ.
Sau vài lần như thế, Hoàng tử đã nghĩ ra được
một cách, cũng khá đơn giản chứ chẳng có gì ghê gớm lắm. Chàng cho mấy người
lính hầu đứng nấp ở xung quanh, còn tự mình cũng nấp sẵn ở gần đấy. Khi cô gái
vừa xuất hiện thì Hoàng tử đã bước ra nắm chặt lấy tay nàng, và mấy người lính
cũng lập tức khiêng cây gỗ đem dấu biến đi. Hoàng tử bảo cô gái hãy vui lòng vì
chàng mà ở lại. Cô gái e lệ cúi đầu. Thế rồi, ngay lúc đó chàng dẫn nàng đến
trình với đức vua cha và hoàng hậu, kể lại hết đầu đuôi ngọn ngành, và xin cha
mẹ hãy tác thành cho họ.
Nhà vua lắng nghe, rồi nói: "Được. Để
xem", xong cho gọi thị nữ đưa nàng về phòng riêng, còn Hoàng tử thì trở về
Đông cung.
Sáng hôm sau thiết triều, nhà vua cho triệu
quan Thái bốc lại để bói xem điều lành điều gở thế nào. Sau khi nghe tấu trình
là quẻ đại phúc, nhà vua cả mừng rồi ngay sau đó, cho cử đại lễ để hoàng tử
sánh duyên cùng cô gái.
Từ đó, cuộc sum vầy của đôi trai gái diễn ra
thật vô cùng êm ả, hạnh phúc. Ba năm sau, họ sinh được một gái và một trai.
Tưởng rằng cuộc tình duyên ấy sẽ mặn nồng mãi
mãi đến lúc đầu bạc răng long. Nào ngờ Hoàng tử cũng là kẻ bạc tình, chỉ chung
thủy được có mấy năm đầu. Khi vợ đã có con thì chàng ta đâm ra hay chơi bời chứ
chẳng quan tâm được như trước. Nay rượu, mai cờ bạc, rồi đi dong duổi khắp nơi,
không chú ý gì đến việc dạy dỗ con cái. Nàng đã nhiều lần khuyên can nhưng
chàng vẫn chứng nào tật ấy, làm nàng rất chán nản. Vì vậy, ở trong hoàng cung,
sống giữa nhung lụa, kẻ hầu người hạ không thiếu, mà nàng cảm thấy bơ vơ, rồi
buồn tủi xót xa, chỉ muốn tìm cách bỏ đi, không chút luyến tiếc. Bởi vì con người
ta vốn là vậy, nên dẫu là thần thánh, thì khi tình yêu đã hết, tất cả sẽ chỉ là
vô nghĩa.
Thế rồi một hôm, nhân khi Hoàng tử bỏ đi chơi
lâu ngày, nàng tìm thấy cây kỳ nam mà khi trước bọn lính đã đem dấu biệt. Nàng
gọi hai con đến rồi đọc một câu thần chú, thế là cả ba mẹ con cùng nhập vào cây
kỳ nam. Cây kỳ nam tự chuyển động rời khỏi hoàng cung rồi lăn xuống sông. Từ
sông, kỳ nam dòng nước trôi ra biển. Biển lúc ấy bỗng nhiên nổi luồng gió trái.
Và theo chiều gió, cây kỳ nam trôi mãi, trôi mãi ... Cuối cùng trở lại biển
phương Nam.
Đến đúng trước cù lao Huân thì gió lặng và cây
kỳ nam dừng lại. Cây trôi vào sát mép nước. Từ thân cây, cả ba mẹ con bỗng chốc
hiện ra, bước lên bờ, rồi trở về nhà cũ. Cả hai ông bà cha mẹ nuôi lúc ấy đều đã
mất. Nhà vắng vẻ tiêu điều. Ba mẹ con bắt tay ngay vào việc dọn dẹp sửa sang cửa
nhà, lập bàn thờ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi cùng làm ăn sinh sống với dân
làng. Từ đấy trở đi, quê hương, vùng cù lao Huân mỗi ngày một thêm ấm no, trù
phú. Thế rồi đến một hôm, giữa lúc trời quang mây tạnh, trước sự chứng kiến và
ngạc nhiên của mọi người, cả ba mẹ con cùng bay vút lên trời ...
Ở phương Bắc, Hoàng tử đi chơi về thấy vợ con
mất tích. Tìm cây kỳ nam ngày trước thì cũng chẳng thấy đâu. Chàng hối hận vô
cùng, lòng tự nhủ lòng sẽ tìm ra bằng được ba mẹ con, dẫu có phải đi xuống tận
địa ngục.
Khi xưa, lúc ở bờ biển chàng có nghe dân chúng
nói cây gỗ này trôi từ biển phương Nam lại. Thế là Hoàng tử vào từ biệt vua cha
và hoàng hậu, rồi cùng một số gia nhân, binh lính và thủy thủ xuống thuyền,
dong buồm vượt biển hướng về phương Nam.
Khi thuyền vừa đúng đến cửa Đại An thì bỗng
đâu một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Thuyền đắm, cả Hoàng tử cùng gia nhân
thủy thủ đều chìm sâu xuống đáy nước. Nhưng khi cơn bão tan thì tự nhiên biển ở
chỗ ấy cũng nổi lên một mô đá nhỏ, vượt cao khỏi mặt nước. Trên mặt mô đá có những
hình thù ngoằn ngoèo tựa như những hàng chữ nổi. Từ bao đời nay, đã có nhiều
người hay chữ và kiến thức uyên bác đi thuyền tới đó, nhưng chưa ai đọc được đấy
là những chữ gì. Và có lẽ như thế nên có thể cho rằng, những điều bí mật của
thiên cơ, chắc còn lâu người ở dưới trần gian mới có thể hiểu thấu được hết.
Ba mẹ con nàng tiên đã về trời, nhưng từ đó đến
nay vẫn thường hiển linh ở các nơi gần xa quanh vùng cửa Đại An, vùng cù lao
Huân, cù lao Yến. Vì vậy dân đi biển, đi đánh cá, đi tìm tổ yến vẫn thường bày
lễ vật, thắp hương rồi hướng mặt lên trời cao cầu xin sự che chở, phù hộ độ trì
của nàng tiên, mà từ đó trở đi được kính cẩn tôn xưng là bà chúa Ngọc.
Bà chúa Ngọc còn được gọi là bà chúa tiên hay
Thánh mẫu Thiên Ya na, theo cách gọi của người Chăm pa, một dân tộc đã định cư
lâu dài ở vùng đất này. Từ Huế đến Nha Trang ở đâu cũng có điện thờ bà chúa Ngọc.
Triều Nguyễn có sắc thượng phong cho bà là "Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng
đẳng thần".
Tại Nha Trang có tháp lớn cao sáu trượng để thờ
bà chúa Ngọc. Lại có cả những tháp nhỏ xung quanh để thờ Hoàng tử, hai người
con và hai ông bà bố mẹ nuôi. Bia đặt trong tháp lớn do chính tay quan đại thần
Phan Thanh Giản thời Tự Đức soạn.
Trước kia, hàng năm triều Nguyễn đều ủy thác
cho bộ Lễ về đây làm lễ quốc tế.