Miếu Bà Chúa Xứ
Thuộc
ấp Vĩnh Tế 1, thị xã Châu Đốc được lập vào thế kỷ 19, lịch sử của chúa Bà có
hai truyền thuyết: miếu bà do dân xây dựng để cúng bái vì tin vào sự linh
thiêng của bà.
Trong
miếu bà Chúa Xứ có một pho tượng bằng đá Sa Thạch cao gần 2m tạc hình một người
đang trong tư thế nghĩ ngợi trầm tư. Đó là “bà Chúa Xứ” mà theo truyền tụng dân
gian kể lại:
Tượng
bà đã có từ rất lâu đời cách đây khoảng 200 năm bà được dân địa phương phát
hiện và được khiêng từ trên đỉnh núi Sam bởi chín cô gái đong trinh tắm rửa
sạch sẽ (theo lời dạy của Bà). Cũng có ý kiến cho đầu thế kỷ 19 Nguyễn Văn
Thoại lãnh lệnh vua đi bình giặc ở biên giới phía Tây. Phu nhân ông ở nhà lo
lắng ngày đêm khấn nguyện để ông bình yên trở về nếu được vậy bà lập miếu tạ
ơn, vì vùng này vốn là rừng thiêng nước độc lắm dã thú, ai đi khó về. Nguyện
ước đạt được ông đã trở về khi nghe bà bày tỏ ý nguyện, ông rất cảm động và nhớ
lại những nguy hiểm mà ông đã đi qua. Ông liền cho xây dựng miếu để tạ ơn và
thỉnh tượng bà từ trên núi về thờ.
Nhà
khảo cổ học người Pháp Malleret là người đã phát hiện ra di chỉ văn hóa Óc Eo
(vùng Ba Thê núi sập). Năm 1941, sau khi nghiên cứu tượng Bà đã xác định đây là
một pho tượng thần Visnu (một trong ba vị thần BàLaMôn giáo) được tạo vào
khoảng thế kỷ thứ 6 đầu thế kỷ 7 sau công nguyên. Như vậy có thể nói rằng tượng
Bà là một pho tượng đàn ông của người Khmer bỏ bên sườn núi Sam. Người Việt đưa
tượng vào miếu tô điểm lại thành phụ nữ.
Do
ảnh hưởng phật giáo, lão giáo cùng tín ngưỡng thờ mẫu của dân gian mà bà Chúa
Xứ trở thành một dạng như “phật bà Quan Âm” và được tôn thờ thành kính. Có rất
nhiều huyền thoại về sự linh thêng của Bà, trong miếu còn treo hai câu liễng
đối nói về việc ban phúc, giáng hoạ của Bà:
Miếu
bà Chúa Xứ kiến trúc theo kiểu chữ quốc, có bốn mái hình vuông, nóc lợp bằng
ngói ống màu xanh, nhà để tượng trưng cũng có bốn mái hình vuông, trong miếu
thờ tượng bà chúa được tọa lạc bằng đá xanh có giá trị nghệ thuật cao. Tượng
tạc vào thế kỷ VI theo mô phỏng tượng thần Vitnu thường có ở các nước Lào,
Campuchia, Ấn Độ, Hội Chùa Chúa xứ được tổ chức rất lớn hàng năm vào các ngày
từ 23 đến 26 tháng 4 âm lịch hàng năm. Hàng vạn người đổ về đây dự lễ tắm tượng
bà, lễ dâng hương cầu phúc lành…
Miếu bà Chúa Xứ lúc đầu khoảng năm 1825 được dựng bằng tre lá sau đó được trùng tu nhiều đợt để trở thành một kiến trúc của phương đông khá đẹp: mái cong lợp bằng ngói xanh, tường bằng gỗ quý, chạm trổ công phu. Trên bậc thềm là hai con sư tử đá ngồi chầu, toà miếu ấy nằm trên vùng đất trũng quay lưng lên đường và dựa vào chân núi Sam ở hướng đông bắc, toàn cảnh núi Sam cũng góp phần tạo thêm khí thiêng cho miếu và làm cho không khí ngày hội nơi đây thêm huyền ảo cao khoảng 230m và chu vi chân núi khoảng 300m núi Sam trông giống hình con sam và ngày xưa từng là hòn đảo nhỏ trên biển (lúc biển còn bao phủ toàn vùng) rất nhiều sam bám vào đây sinh sôi nên nó có tên chữ học lãnh hơn (nghĩa là núi con sam) tọa lạc tại làng Vĩnh Tế thị xã Châu Đốc.
Có người hỏi tượng Bà làm bằng đá gì? Có rất nhiều giả thuyết về điều bí ẩn này, có tác giả gọi là đá “Sa Thạch”, người khác gọi là đá “Son”, người khác gọi là đá “Xanh”. Nhưng những tên gọi ấy không kèm được chứng minh nào cả.
Nhưng
theo một nghiên cứu và có kết luận chính xác, tượng bà được tạc bằng một loại
Nham Thạch có tên gọi là Diệp Thạch. Loại Nham Thạch này hình thành từ các hố
đại dương, nên có cấu tạo nhuyễn hạt.
Lễ Hội Bà Chúa Xứ
Diễn
ra vào ngày 24-4 âm lịch hàng năm, bao gồm các lễ:
Lễ Mộc Dục (lễ tắm bà) diễn ra vào 12h khuya ngày 23-4, một tấm màn
giăng ngang che kín tượng bà và hai phụ nữ được lựa chọn trước để vào tắm và
thay y phục, phía ngoài là hàng trăm người đang quỳ làm lễ tay mỗi người đều
cầm bông huệ trắng, nước tắm cho bà được nấu với quế và hương hoa sau khi tắm
bà xong sẽ được phân phát cho khách trảy hội uống lấy phước đến nay hiện tượng
này không còn nữa. Cũng vậy bộ y phục cũ của bà sẽ được cắt thành từng mảnh nhỏ
phân phát cho mọi người để làm một thứ bùa hộ mệnh quý giá.
Lễ Túc Yết: Ngày 25 tháng 4 âm lịch 4 giờ chiều lễ thỉnh sắc phong cho bà
rước từ lăng Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà. Đoàn người rước được sắp xếp theo thứ
tự với nghi trượng nghi vật rình rang và có đốt pháo múa lân. 12 giờ khuya lễ
yết mời bà về dự lễ tiếp theo là lễ xây chầu (hát bội) với các nghi thức sau:
trước hết chánh bái (người chủ trì cuộc lễ) dâng theo (tượng trưng bằng một đĩa
huyết và một ít lông heo), sau đó dâng hương và rượu rồi đọc văn tế cuối cùng
tiếp hai tuần rượu một tuần trà – tiếp theo chánh bái ca công (đại điện đoàn
hát bội) bước vào làm lễ tay cầm nhánh dương vừa rải nước vừa đọc:
Sau
cùng là Lễ Xây Chầu. Ông Chánh Bái
ca công niệm hương rồi nhúng cành dương vào tô nước vừa rải vừa đọc bài bái tế.
Đọc xong ông đánh ba hồi trống và hô to: ca công tiếp giá. Lập tức chiêng trống
nổi lên đoàn hát bội bắt đầu phục vụ.
Lễ Chánh Tế tiến hành lúc 4h sáng 27/4 âl, các nghi thức và vật phẩm cũng
giống như túc yết, chiều ngày 27 vào lúc 6h ban quản trị tổ chức lễ hồi sắc để
đưa linh vị trở về lăng miếu, chấm dứt các nghi thức “vía Bà”.
Miếu
bà Chúa Xứ qua nhiều lần trùng tu ngày nay xứng đáng là một di tích nằm trong
một thắng cảnh mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế hàng ngày không ngớt khách hành
hương trong và ngoài nước lui tới viếng, là niềm tự hào cho dân bản xứ.
Yếu
tố độc đáo ấy còn chi phối toàn bộ suy nghĩ của chúng ta về những truyền thuyết
quanh sự hiện diện của bà.
Lễ
Vía Bà hằng năm thu hút rất đông khách thập phương. Đến với lễ hội họ vừa được
tham dự lễ hội dân gian phong phú để xin cầu tài cầu lộc, gia đình đầm ấm; Tại
đây còn có tục “vay tiền bà” vẫn còn, nên hiện nay mỗi năm tiền khoảng
10tỉ/năm; thì tiền này sẽ được dùng vào việc xây dựng, tôn tạo kiến trúc; hoặc
là mở đường từ thị xã Châu Đốc vào đây. Có người nói đùa: Bà là người phụ nữ
kinh doanh giỏi nhất ở Nam Bộ.
Đồng
thời họ có dịp để du ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh trí thiên nhiên ở An Giang.
Diễn
tiến lễ hội: ngày 24 tháng 4 âm lịch đúng 12 giờ khuya tiến hành lam lễ mộc dục
(lễ tắm bà).