CHÙA TIÊU SƠN, BẮC NINH
NƠI NUÔI DƯỠNG VUA LÝ THÁI TỔ - BÍ ẨN NHỤC THÂN ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG 300 NĂM - CHUYỆN TÌNH TRƯƠNG CHI MỴ NƯƠNG
KIẾN THỨC HƯỚNG DẪN VIÊN THUYẾT MINH DU LỊCH
Tọa lạc: Tiêu Thượng, Từ Sơn, Bắc Ninh .
Năm xây dựng : Giữa thế kỷ VII
VỊ TRÍ
Nằm gần trung tâm Phật giáo Luy
Lâu, lịch sử chùa Tiêu Sơn gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc. Linh khí
đất Tiêu Sơn đã sản sinh cho dân tộc một người con ưu tú. Đó là vua Lý Thái Tổ.
Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường
đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang (Từ
Sơn, Bắc Ninh). Giữa cánh đồng mênh mông trồi lên một ngọn núi, đứng từ
xa trông rõ tượng thiền sư Vạn Hạnh khổng lồ nhìn về Thăng Long.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Chùa xây dựng từ giữa thế kỷ VII, đến thời Lý được
tôn tạo rộng lớn nghiệm hơn. Nơi đây còn ngôi tháp cổ xây năm 808 chứa di hài
hoà thiếu của các nhà sư trụ trì tại chùa.
Đến Tiêu Sơn, ngay trên đường lên nhà Tổ và chùa chính, ta gặp
một nhà bia. Ở hai cột nhà bia đắp nổi đôi câu đối:
Ở giữa nhà bia đặt một tấm bia bằng đá nhám kích thước 60 x
40 x 25cm, mặt chính khắc bốn chữ “Lý gia linh thạch”. Bia trước ở vách núi, ba
mặt bị đất cỏ che lấp, khi chuyển vào nhà bia, người ta mới biết mặt sau có khắc
chữ Hán.
Chùa Thiện
Tâm quy mô to lớn. Trước đây, hằng năm có hàng trăm tăng, ni từ khắp nước về
đây nghe kinh, giảng đạo. Trong nhiều thế kỷ, chùa là nơi khắc ván in các bộ
kinh lớn của nhà Phật. Vào năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi cổ tự
bỗng chốc đã biến thành đống tro tàn. May thay ở sườn núi còn khá nguyên vẹn 14
ngọn tháp, là nơi yên nghỉ của các vị sư tổ.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX,
chùa Tiêu Sơn đã được dựng lại đơn sơ trên nền móng cũ.
Năm 1992, nhân
dân địa phương công đức tiền của dựng ngôi bảo tháp thờ vọng Lý Vạn Hạnh ở trước
tòa tam bảo; lại dựng tượng vị thiền sư trên đỉnh núi Tiêu.
Năm 1993 trên núi Tiêu Sơn mới dựng
tượng đài Sư Vạn Hạnh. Tượng Sư Lý Vạn Hạnh tạo ở thế tọa thiền cao 8m, mặt hướng về phía kinh
thành Thăng Long.
Năm 2001 dựng
lầu Bồ Tát giữa hồ nước lớn trước chùa.
Năm 2002 dựng
nhà Tổ.
Năm 2003 dựng
tam bảo theo kiến trúc xưa.
Nơi đây Lý Khánh Văn đã tu hành
và từng nuôi day Lý Công Uẩn – Vạn Hạnh cũng có đến tu ở chùa này.
Chùa còn tấm bia đá nhám, có nhan
đề Lý gia lịch thạch (40 x 60cm) khắc chữ Hán, trong đó có đoạn nói: “Chùa Thiện
Tâm chủ trì tăng viện là sư Lý Vạn Hạnh người ở Cổ Pháp. Đặc biệt phía động bên
tả ngạn có bà Phạm Mẫu người ở Hoa Lâm khi lên chùa đèn nhang thấy một vị thần
hầu đứng cạnh cột chùa. Người dạy đi theo vào giữa hang núi lấy của… Từ ấy là
ngẫm sự việc hiện nơi mặt, thường ngồi trên núi buổi đầu rất linh thiêng. Việc
ngẫu nhiên thành có thai sinh người con họ Lý”. Chi tiết này phù hợp với sử
chép: “Mẹ Lý Công Uân họ Phạm đi chơi chùa Tiên Sơn cùng với người thần giao cảm
rồi có chửa”, và “năm 1009 Lý C. Uẩn lên ngôi tôn mẹ Phạm Thị là Minh Đức Hoa
thái hậu”. Đó là mô típ phổ biến chẳng khác gì mẹ Thánh Gióng, chỉ ướm lên vết
chân Thần mà mang sinh ra Thánh Gióng, Phù Đổng v… Huyền thoại về bà họ Phạm
nơi đây khá đậm nét ở làng cùng với bao nhiều giai thoại về Lý Công Uẩn. Như
chuyện chép ở Việt sử lược biên vào năm Duy Tân Kỷ Dậu (1909) tác giả viết: Trước
hôm bà họ Phạm mang con đến chùa để Khánh Văn phận làm con nuôi, con chó đá tự
nhiên sủa được, kết hợp với quẻ bói của sư Khánh Văn, sư nói với mọi người “Sẽ
có thánh nhân đến”, quả nhiên có Phạm Thị bồng con đến. Về Lý Công Uẩn, sách
Bách chiến trang đài Phạm Đình Dục viết: Bà sinh vua Thái Tổ (nhà Lý)
chùa Tiêu Sơn, khi trở dạ có 1 đạo
hào quang từ trên trời bay vào phòng, biết đó là điềm lành. Khi vua mới lên 3,
sư Vạn Hạnh nhìn thấy ngạc nhiên nói: “Thằng bé này không phải người thường, lớn
lên tất sẽ làm chủ thiên hạ”. Còn chuyện, năm Lý Công Uẩn lên 6 tuổi nhà sứ sai
đem sản lên chùa cúng Hộ pháp, Công Uẩn khoét sản ăn trước, hôm sau sự gọi lên
mắng, Công Uẩn giận lắm lên chùa đánh Hộ pháp 3 cẳng tay và viết sau lưng cho
tượng mấy chữ “Đồ tam thiên lý” (đày ba ngàn dặm). Chữ viết không ai rửa xoá được,
sau đó Công Uẩn chỉ lấy ngón tay xoa xoa là sạch ngay. Có lần Công Uẩn trốn học,
sư Vạn Hạnh trói cả đêm ở tam quan, muỗi đốt không ngủ được, tức cảnh ngâm 4
câu thơ. Tạm dịch:
"Trời làm màn gọi, đất làm chiên
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng"
Vạn Hạnh nghe thơ cho là có khí
tượng đế vương nên rất mừng, từ đó ra công dạy dỗ và lo toan cho Công Uẩn nên
nghiệp lớn. Theo sử sách cổ và truyền kể từ dân gian, chùa Tiêu Sơn đã
có từ rất lâu đời. Đến thời nhà Lý, Bắc Ninh trở thành một trung tâm Phật giáo
Kinh Bắc và chùa được nhà sư (Quốc sư) Lý Vạn Hạnh chủ trì.
Một số ghi chép khác:
Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn
thư, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí đều có ghi chép về
chùa Tiêu và truyền thuyết về Lý Công Uẩn, như sau: “Thái tổ họ Nguyễn (Lý).
Người châu Cổ Pháp Lộ Bắc Giang. Mẹ là Phạm Thị, ngày 12 tháng 2 năm thứ 5 niên
hiệu Thái Bình (974) sinh ra vua. Vua khi bé đã thông minh, khí độ, rộng rãi,
du học ở chùa Lục Tổ, sư Vạn Hạnh trông thấy lấy làm lạ nói rằng: Đây là người
phi thường sau này lớn lên tất có thể cứu nước, yên dân làm bậc minh chủ thiên
hạ”.
Khi Lý Công Uẩn được 3 tuổi đã được
mẹ đem lên chùa Tiêu gửi Thiền sư Lý Vạn Hạnh nuôi dạy lớn khôn. Chùa Tiêu còn
bảo lưu nhiều tài liệu cổ vật và những truyền thuyết, giai thoại phản ánh sống
động về sự tích lai lịch, công trạng của Lý Công Uẩn, Quốc sư Lý Vạn Hạnh đã có
công nuôi dưỡng giáo dục Lý Công Uẩn từ thơ ấu cho tới lớn khôn trưởng thành,
sau trở thành bậc Minh Vương khai lập nền văn minh Đại Việt. Nhớ công ơn Vua Lý
Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình ra Thăng Long, Hà Nội, tại chùa hiện nay
còn lưu giữ bản Chiếu dời đô.
BÍ ẨN NHỤC THÂN 300 TUỔI ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG
Thêm một bí ẩn mà có lẽ chỉ có người đến chùa tận mắt xem mới thực sự tin đó là thật. Năm 2014 chùa được chính quyền địa phương khai quật pho tượng táng gần 300 tuổi trước tòa Tam Bảo. Đây là nhục thân trong ngôi tháp là Hòa thượng Như Trí, người viên tịch nhưng vẫn còn giữ nguyên hình thể.
Hòa thượng Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học, nổi tiếng là cuốn sách cổ “Thiền uyển tập anh”. Nó ghi lại các tông phái Thiền học và sự tích các vị thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý, Trần, có giá trị cả về mặt văn học, triết học và văn hóa dân gian.
Theo một nhà nghiên cứu về đạo Phật thì hệ phái Thiền Tông lấy pháp vô tướng làm căn bản, hành đạo mà không lưu dấu vết. Việc để lại xác thân của các Thiền sư là một cách thể hiện lý tưởng Bồ tát đạo để cho người đời sau chứng nghiệm, có tu là có kết quả, tu kiếp nào thì kết quả hiện tiền kiếp ấy. Tượng Thiền sư Như Trí tư thế ngồi thẳng, mắt mở to, tay để vững chãi, chân bán già; tuy đã tịch diệt nhưng tinh thần không lìa bỏ thế gian. Bằng xác thân của mình, Ngài như đang dẫn dắt người đời sau đến với đạo một cách chân thực, giản dị.
Trong gian nhà Tổ, dưới chân pho tượng chứa nhục thân bất hoại
của thiền sư Như Trí, ni sư Đàm Chính ngồi trầm mặc, một tay lần tràng hạt, một
tay đều đều gõ mõ lốc cốc.
Một lần, khi tình cờ nhìn qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt
nhìn vào và giật mình suýt ngã khi thấy rõ ràng một người đang ngồi kiết già
trong tháp. Hoảng quá, ni sư Đàm Chính cầm viên gạch bịt kín lại và chôn chặt
chuyện này trong lòng, không kể với bất kỳ ai.
Theo các tài liệu còn lưu lại ở chùa, thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của
thiền sư Chân Nguyên. Thiền sư Như Trí cùng người thầy Chân Nguyên của
mình tiếp nối tinh thần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Theo các tài
liệu của thiền phái Trúc Lâm, sau khi mãn duyên độ sinh, ngài an nhiên trước
sinh tử, nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại.
Theo ni sư Đàm Chính, nếu không có sự kiện một người chăn
trâu mò lên tháp tìm của quý, chọc thủng pho tượng thiền sư Như Trí, thì ni sư
quyết đem bí mật về pho tượng kia xuống suối vàng.
Năm ấy, một người đàn ông trong làng, khi thả trâu trên núi Tiêu, đã mò lên tháp Viên Tuệ với ý định tìm… vàng bạc. Gỡ mấy viên gạch ra, ông này nhìn thấy một pho tượng giống hệt một người còm nhom đang ngồi trong tháp. Do tò mò, ông ta đã kiếm một cây gậy chọc thử vào pho tượng. Kết quả, ông ta chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong.
Sau này người chăn trâu này bị bệnh trọng, thế là lời đồn thổi về một nhà sư chết ngồi trong tháp rất linh thiêng lan truyền khắp xóm thôn. Biết không thể giấu kín chuyện này mãi, ni sư Đàm Chính đã báo cáo với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt.
PGS. TS Nguyễn Lân Cường kể, hồi đang tu bổ nhục thân Vũ Khắc
Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, một tỳ kheo của Thiền viện Trúc Lâm đã đến
xem và có ý yêu cầu ông tu bổ giúp một nhục thân nữa, tuy nhiên, gặng hỏi mãi
mà vị tỳ kheo kia nhất quyết không nói đó là nhục thân nào, ở chùa nào.
Đến tận năm 2004, sau khi viết xong dự án “Tu bổ và bảo quản thiền sư Như Trí ở
chùa Tiêu Sơn” và được phê duyệt, TS. Nguyễn Lân Cường mới có điều kiện tiếp cận
với nhục thể vị thiền sư kỳ lạ này.
Hầu hết thông tin từ pho tượng nhục thân của thiền sư Như Trí cung cấp cho TS.
Nguyễn Lân Cường, cũng giống như nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu.
Thiền sư Như Trí cũng tịch trong tư thế ngồi thiền và được các đệ tử phết bên
ngoài bằng một lớp bồi gồm đất tổ mối, sơn ta, mùn cưa…
Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc. Nhưng trong
lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân ngài qua nhiều
năm không bị gục xuống.
Điều vô cùng ngạc nhiên với TS. Nguyễn Lân Cường khi tu bổ
pho tượng táng này, đó là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm
trong bụng thiền sư Như Trí.
Ông Cường khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm
hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”.
Tin chắc khối vật chất này chính là nội tạng của thiền sư Như Trí, song ông Cường
và các nhà khoa học vẫn lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
Quốc gia để phân tích.
Đúng như dự đoán, kết quả phân tích hóa học cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền
sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng.
Từ kết quả này, TS. Nguyễn Lân Cường suy luận rằng, trong bụng hai vị thiền sư
chùa Đậu cũng có khối hợp chất còn lại của nội tạng mà máy chụp X-quang không
phát hiện được.
Theo lời TS. Nguyễn Lân Cường, khi mở am tháp, ông đau lòng vô cùng khi chứng
kiến thiền sư Như Trí ngồi thiền trong môi trường ẩm mốc. Toàn bộ nhục
thân của ngài đã bị tỷ tỷ vi khuẩn xâm nhập phá hoại, thậm chí, rất nhiều loại
côn trùng, bò sát đẻ trứng quanh ngài.
Với sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm
năm, lẽ ra toàn thể nhục thân của ngài đã phải về với cát bụi, thế nhưng, vì
sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn
còn nguyên vẹn? Câu hỏi này chưa có lời giải đáp.
Việc tu bổ pho tượng táng nhục thân thiền sư Như Trí đã hoàn
thành từ năm 2004. Thiền sư đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục
"ngồi kiết già" trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản vô cùng kỹ lưỡng của
khoa học hiện đại
Ngày 5-3-2004, trước sự chứng kiến của hàng trăm nhà sư, Phật tử và đại diện
chính quyền địa phương, ngôi tháp cổ đã được khai mở. Và nhục thân Thiền sư Như
Trí trong tư thế ngồi kiết già được rước ra, bị hư hỏng nặng: tay rụng, mắt
trái thủng, toàn thân nứt nẻ.
Nơi cất giữ tượng ẩm thấp, nước vẫn tiếp tục nhỏ xuống từ
các mạch vữa lở lói.
Trên tháp có tấm bia nhỏ ghi: Đây là "Viên Tuệ tháp" được đệ tử nối
pháp của ngài là Tính Phong (cùng hàng môn nhân) dựng vào mùa xuân năm 1723 đời
vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái thứ tư. Như vậy pho tượng và ngôi cổ tháp đã
có ít nhất gần 300 năm tuổi.
Dòng sông Tiêu Tương và văn hóa người Việt. Mối tình đẹp của Chàng Trương Chi và Mỵ Nương.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “sông Tiêu Lương cũ ở địa
giới phủ Từ Sơn, phát nguyên từ cái đầm lớn xã Phù Lưu huyện Đông Ngàn, chảy từ
phía tây sang đông bắc qua xã Tiêu Sơn huyện Yên Phong, chuyển sang địa phận
hai huyện Tiên Du và Quế Dương vào sông Thiên Đức (sông Đuống).
Sách Địa chí Hà Bắc ghi rằng: “Sông Tiêu Tương, ở địa giới
huyện Tiên Sơn phát nguyên từ hồ Lãng Bạc chảy từ phía tây sang đông bắc qua xã
Tương Giang, Vân Tương, qua các làng quan họ nổi tiếng như Lim, Bưởi, Ó, Se,
Bò… rồi chảy vào sông
Người dân trong xã Từ Sơn, huyện Tiên Du chỉ biết rằng: Dòng sông Tiêu Tương ngày nay còn lại chỉ một đoạn ngắn nhìn như một chiếc hồ chạy quanh chân núi Tiêu phía trước cửa chùa Tiêu. Nhưng với họ vẫn truyền miệng về một mối tình đẹp đẽ của chàng Trương Chi với nàng Mỵ Nương con quan Thừa tướng.
Câu chuyện cổ đi từ truyền thuyết qua thơ văn, âm nhạc vào đi vào đời sống của
người dân đậm nét văn hóa. Chuyện kể về một chàng đánh cá nghèo tên là Trương
Chi sống trong một chiếc thuyền chài nhỏ trên sông Tiêu Tương. Ngày ngày, chàng
vừa thả lưới, vừa cất lời ca, tiếng hát. Tiếng hát của chàng vọng đến lầu của
nàng Mỵ Nương con quan Thừa tướng. Nghe tiếng hát Mỵ Nương đem lòng yêu chàng
Trương Chi say đắm…
Không chỉ nổi tiếng với mối tình đẹp đẽ đầy chất thơ văn, mà theo một số nghiên cứu thì mặc dù sông Tiêu Tương đã bị bồi lắng, có đoạn thành đường, thành ruộng, nhưng trong sử sách nó đã nối các vùng văn hóa kinh Bắc suốt những thời kỳ dựng nước và giữ nước của người Việt, từ khi An Dương Vương xây dựng quốc gia Âu Lạc cho đến khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng và lên ngôi đóng quân ở Cổ Loa năm 938.
Một số nghiên cứu cho biết: Sông Tiêu Tương bắt nguồn từ một nhánh sông Hồng đi qua Cổ Loa, Dục Tú, Phù Lưu, Dương Lôi, Tam Sơn, Tương Giang, Lim, Xuân Ổ,… tạo nên một hệ thống giao thông thuỷ có vai trò đặc biệt quan trọng giao thương hàng hóa kinh tế khu vực phía Bắc và truyền bá văn hoá từ trung tâm Cổ Loa tới các khu vực dân cư nằm ven hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, hình thành những vùng văn hóa đặc trưng riêng có với các làn điệu cổ.
Dọc theo chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta có rất nhiều địa danh nổi tiếng trong lịch sử gắn với Hoàng Giang. An Dương Vương, triều vua khai sáng của người Việt từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đã lợi dụng dòng Hoàng Giang tạo nên các đoạn hào tự nhiên để bảo vệ thành Cổ Loa.
Ngày nay, ngay bên nhánh của sông Hoàng Giang là sông Đuống người ta đã tìm thấy phát tích của Vua Hùng là Kinh Dương Vương (ông nội của Lạc Long Quân). Người dân ở đây cho rằng: Sông Tiêu Tương dường như đã gắn liền với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Kinh Dương Vương và chùa Tiêu cùng nằm bên cạch sông Đuống. Đứng ở bên này di tích Kinh Dương Vương nhìn sang bên kia sông Đuống là chùa Tiêu. Để nối 2 điểm di tích danh thắng này, tỉnh Bắc Ninh vừa khởi công xây dựng cây cầu nối 2 bờ sông Đuống.
Tìm hiểu về dòng sông Tiêu Tương và khu di tích chùa Tiêu ai đến một lần sẽ muốn
đến nữa để biết thêm về một vùng đất cổ còn nhiều bí ẩn, với bao truyền thuyết
gắn với lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam.