TẠI SAO TÔI ĐI DU LỊCH PHẢI TIP CHO HDV?


 "Tại sao tôi mua tour vẫn phải tip cho hướng dẫn viên?" 

Để bày tỏ lời cám ơn một cách tế nhị, lịch lãm đến những người đã tận tâm phục vụ chu đáo mình trong một dịch vụ nào đó, người Pháp “pourboire”, nghĩa là cho tiền (để người phục vụ mình) uống nước. Pourboire được ghép từ 2 từ pour (để, cho) và boire (uống), ngày trước người Việt phát âm là “puộc boa” (hoặc “puốc boa”), ngày nay nói gọn thành “boa” (“boa” đã là nói tiếng “bồi” rồi; phát âm thành “bo” là “tiếng bồi của tiếng bồi”, không chuẩn).

Với nghĩa tương đương, người Anh có từ tip, nghĩa là tiền quà, tiền diêm thuốc.

Cũng có một số luận thuyết về xuất xứ của chữ “tip” (tiền cho thêm người phục vụ). Theo đó, vào thế kỷ 17, từ ngữ này được dùng như một động từ có nghĩa là “để cho”.

Điều này phù hợp với câu chuyện của các lãnh chúa thời phong kiến ném những đồng tiền vàng như là “tiền tip” cho những người nhà quê trên đường phố để họ không quấy rầy, cản lối đi của mình.

Tiền tip cũng được cho là từ viết tắt của cụm từ “để bảo đảm sự mau mắn”, với nguồn gốc của nó bắt nguồn từ các quán cà phê ở Anh vào thế kỷ 16. Nhưng ý tưởng này không được phổ biến rộng rãi cho đến những năm 1920.

● Khi nào thì “boa”? 

Đó là khi bạn được phục vụ và cảm thấy hài lòng; khi bạn cảm thấy giá dịch vụ rẻ hơn những gì mà bạn nhận được; khi bạn sợ rằng mình ngồi quá lâu, uống quá nhiều trà đá miễn phí hay nhờ nhân viên quá nhiều...

“Boa” là nghĩa cử đẹp vì tình người giữa người mua (có tiền) và người bán (làm thuê, không có tiền) trong đời sống kinh tế thị trường. Không “boa” cho chủ, chỉ “boa” cho nhân viên. “Boa” tiền là một cách cảm ơn khéo người bán bởi vì họ có thái độ tận tình hơn cả giá trị hàng hóa mà ta mua. Hiểu đúng giá trị của việc tip tiền mới thực sự có được “văn hóa tiền boa”.

Hành vi “boa” tiền có thể là văn hóa hoặc phi văn hóa. ♡ Nếu “boa” bằng tấm lòng chân thực và thông cảm với tiền lương của nhân viên thấp mà công việc lại nặng nhọc thì đó được xem là có văn hóa. 

◇ Nhưng nếu “boa” tiền mà lợi dụng người bán hàng/nhân viên phục vụ về tình cảm, thể xác… thì hành vi này chỉ là sự đổi chác thông thường và là phi văn hóa.

Có không ít người cho tiền “boa” nhưng với thái độ “ta đây” nên bị nhân viên lườm nguýt, bị người ngồi bàn khác bình phẩm, bị chủ quán trả lại.

●  “Boa” cũng phải đúng cách. 

Nếu quán có bìa kẹp tiền thì hãy đặt tiền “boa” vào đấy sau khi nhân viên đưa tiền thừa (thối lại) ra. Khi trao tiền “boa”, hãy nhìn vào người nhận và nhẹ nhàng nói “Cám ơn em”, hoặc “Em vất vả từ nãy giờ rồi”, hoặc khen ngợi một món ăn nào đó. Hãy lấy lại tiền lẻ thừa (thường là tiền giấy cũ nhàu) và “boa” bằng một tờ tiền polymer mới. Để là một người lịch lãm trong hành vi “boa”, tuyệt đối không “boa” bằng các tờ tiền mệnh giá 1.000 - 2.000 đồng; không vừa trả tiền vừa hét toáng lên “khỏi thối!”...

Ở nước ngoài, một số dịch vụ có quy ước ngầm về tiền “boa”, ví dụ ăn tối thì 15%, đi taxi thì 10%,... trên tổng số tiền phải trả. Ở Việt Nam, người ta thường “boa” số tiền lẻ còn thừa, nên người nhận sẽ hên xui tùy vào tiền thừa nhiều hay ít.

Tiền “boa”, với khách, 10% sẽ không tốn kém thêm bao nhiêu khi họ đã quyết định dùng dịch vụ; với nhân viên phục vụ, đó là khoản thu nhập quan trọng của họ. Một số nhà hàng đưa ra quy ước ngầm là tiền “boa” được gom lại một đầu mối và chia theo tổ phục vụ từng khu vực, tiền này nhiều khi cao hơn cả tiền lương chính của họ.

Hầu hết các chủ dịch vụ không lấy tiền “boa”. Tuy nhiên, số tiền “để uống nước” này giúp họ giữ chân nhân viên. Khi nhân viên có thêm thu nhập và vui vẻ làm việc thì họ sẽ giảm gánh nặng tiền lương; tất nhiên, chất lượng dịch vụ của họ sẽ ngày một được cải thiện và khách hàng sẽ đến với họ nhiều hơn.

Vì thế, nhiều nhà hàng xem tiền “boa” là thước đo đánh giá dịch vụ của họ. Tiền “boa” cũng tạo ra hình ảnh khách hàng lịch thiệp hơn trong mắt nhân viên và hàng quán, lần sau đến thế nào cũng được phục vụ tốt hơn.

● Trung tâm Nghiên cứu Khách sạn thuộc Đại học Cornell ở Ithaca (New York), đã tiến hành một số cuộc nghiên cứu cho thấy một số yếu tố thú vị khác về những thói quen của người phục vụ có thể làm tăng lên số phần trăm tiền tip. Sau đây là một vài tình huống trong số đó:

Sự đụng chạm: Những người phục vụ có kinh nghiệm cho biết tiền tip có thể tăng lên từ 11,8% đến 14,8% khi họ thoáng chạm vào vai của người khách. Cả nam giới lẫn nữ giới đều để lại những món tiền tip nhiều hơn khi được chạm vào, cho dù những người trẻ tuổi hơn cũng cho thêm tiền tip.

Nói chuyện với khách hàng: Hai nghiên cứu cho thấy những người phục vụ bàn đứng kế bên bàn khi khách gọi món và nói chuyện với họ thường nhận được tiền tip gia tăng từ 14,9% đến 17,5% trong hóa đơn theo một cuộc nghiên cứu, cũng có lúc tăng từ 12% đến 15% theo một cuộc nghiên cứu khác.

Rõ ràng, sự liên hệ bằng mắt và sự tương tác gần gũi hơn đã tạo ra mối kết nối thân thiết hơn, khiến cho khách muốn cho người phục vụ thêm tiền tip.

Cho kẹo: Theo một nghiên cứu, khi người phục vụ cung cấp cho khách hàng một ít kẹo trong hóa đơn tính tiền của họ, tiền tip sẽ tăng lên từ 15% đến 18%. Cũng có khi nhờ vậy mà tiền tip đã được tăng lên từ 19% đến 21%, theo một cuộc nghiên cứu khác.

Sự trợ giúp: Một nghiên cứu về những người khuân vác ở khách sạn cho thấy chỉ cần bỏ thêm một vài phút giải thích cho các khách hàng cách vận hành chiếc tivi và bộ điều chỉnh nhiệt (thermostat), hoặc kéo màn cửa cho khách, và đem đến một xô đá đầy, họ thường nhận được số tiền tip tăng lên từ 2,4 USD đến 4,77 USD.

● Chuyện tặng tiền tip ở một số quốc gia

Nigeria, châu Phi

Ở Nigeria, việc cho tiền tip không phổ biến ở các khách sạn và nhà hàng cao cấp bởi vì phí dịch vụ đã được tính kèm trong hóa đơn mặc dù hiếm khi các nhân viên nhận được khoản tiền tip này trong tiền lương của họ.

Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhà cung cấp dịch vụ thường ép buộc các khách hàng phải cho tiền tip một cách tinh tế. Đã có báo cáo về những trường hợp các nhân viên bảo vệ yêu cầu các khách hàng ở ngân hàng cho họ những món tiền tip.

Trung Quốc

Ở Trung Quốc, không có truyền thống cho tiền tip. Tuy nhiên, các khách sạn phục vụ những du khách người nước ngoài cho phép lấy tiền tip, ví dụ như những người hướng dẫn khách du lịch và những tài xế đi kèm theo.

Ở Hong Kong, tiền tip không được mong đợi tại các khách sạn và nhà hàng, những nơi mà khoản phí dịch vụ 10% đã được thêm vào hóa đơn thay vì trông đợi tiền thưởng.

Những tài xế lái xe taxi ở Hong Kong cũng có thể tính phí chênh lệch giữa giá vé và khoản tiền chu kỳ đi lại như là một khoản “phí lịch sự” để tránh phải thay đổi sang những hóa đơn lớn hơn. Có một ngoại lệ: một nơi tiền tip được chấp nhận là Macau, nơi trước đây từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha.

Nhật Bản

Ở Nhật Bản, tiền tip không nằm trong truyền thống văn hóa của quốc gia này. Nó không được đón nhận và có thể gây bối rối. Giống như nhiều quốc gia khác ở Đông Á. Người Nhật xem tiền tip như một hình thức xúc phạm.

Hàn Quốc

Tiền tip không phải là một thông lệ trong nền văn hóa Hàn Quốc. Một số người thậm chí còn xem tiền tip như một hành vi không thích hợp.

Các khách sạn và nhà hàng cao cấp thường bao gồm phí dịch vụ từ 10% đến 15%, nhưng nó luôn có trong hóa đơn và khách hàng không phải trả tiền thưởng riêng cho những người phục vụ.

Mỹ

Tiền tip là là một tập quán xã hội được thực hiện tại Mỹ. Theo định nghĩa, tiền tip là việc tự nguyện, tùy ý của khách hàng. Trong các nhà hàng cung cấp dịch vụ bàn ăn truyền thống, tiền tip chiếm khoảng từ 15 – 20% trên số tiền chi phí của khách hàng.

Trong những nhà hàng kiểu buffet, tiền tip cho phục vụ trung bình chỉ chiếm 10%. Tiền tip được trao tặng tại các dịch vụ như các sân golf, sòng bạc, khách sạn, spa, shop và các dịch vụ trợ giúp đặc biệt, chẳng hạn như chuyển giao thực phẩm tận nhà và xe taxi.

Pháp

Các quán cà phê và nhà hàng bao gồm 15% phí phục vụ trong hóa đơn theo yêu cầu của luật lệ nước Pháp để đánh giá mức thuế. Nhưng đôi khi nhân viên phục vụ không nhận được tiền này.


Số lượng tiền tip vốn cũng không được nhiều. Số tiền tip lên tới 5% đã được xem là hậu hĩnh đối với một người phục vụ tốt.


Dù cho người phục vụ có làm thật tốt trong một nhà hàng vào hạng cao cấp, thì số tiền tip cũng chẳng thay đổi. Tuy nhiên, đối với những người phục vụ bàn ăn (cả nam lẫn nữ) đã săn sóc rất tốt cho những thực khách người nước ngoài hào phóng, họ vẫn có thể nhận được số tiền tip lên đến 10% hoặc hơn.st


Bài viết liên quan:

Đánh giá của Bạn về bài viết này?

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

đăng ký nhận tin mới